Thứ năm, 29/03/2018 | 05:37 GMT+7
[ Nghiên cứu ] Cải tiến định hướng dược phẩm số hóa tại bệnh viên công Việt Nam
Phan Van Dinh
Nguyen Thi Le Van và Nguyen Duc Bao Long
Trường Đại học Đông Đô, Việt Nam
Một số cơ quan thuộc hệ thống công lập trên toàn cầu đã và đang xác định Chương trình Đấu thầu Điện tử là một chương trình nghị sự Chính phủ điện tử ưu tiên. Đồng thời đã triển khai hoặc đang trong quá trình triển khai các hệ thống Mua sắm Đấu thầu.
Đấu thầu điện tử là bắt buộc đối với việc cung ứng dược phẩm cho các bệnh viện tại Việt Nam . Đấu thầu giúp cắt giảm chi phí, tiết kiệm thời gian cung ứng cũng như nguồn nhân lực cho các hoạt động cung ứng. Hiện nay, hình thức đấu thầu được áp dụng phổ biến là đấu thầu bằng văn bản mà bản thân hình thức này đã chứa đựng rất nhiều vấn đề như: lãng phí thời gian hay thiếu sự thông suốt,....Đấu thầu điện tử là một thuật ngữ khá mới tại Việt Nam và mới chỉ được áp dụng đến tại một số thành phố lớn như Hồ Chí Minh, Hà Nội hoặc Đà Nẵng. Để thúc đẩy ứng dụng đấu thầu điện tử trong các ngành công nghiệp dược phẩm tại một số tỉnh thành khác ở Việt Nam thì việc nghiên cứu sâu về tiềm năng ứng dụng và các yếu tố ảnh hưởng là rất cần thiết.
Mục tiêu tổng thể của công trình nghiên cứu này là tìm hiểu sâu thêm về các vấn đề Đấu thầu điện tử trong các bệnh viện thuộc hệ thống công lập; xây dựng khung khái niệm giúp xác định các yếu tố thành công quan trọng trong việc áp dụng và thực hiện Đấu thầu điện tử trong hệ thống công lập; và để thúc đẩy cuộc tranh luận giữa việc cung ứng số hóa CSFs và các biện pháp có liên quan để dẫn đến thành công. Thông qua cuộc khảo sát và việc tổng quan tài liệu, bài nghiên cứu này xác định ra các mối quan hệ giữa việc thúc đẩy Đấu thầu dược phẩm điện tử tại phía Tây Bắc Việt Nam và trên phạm vi thế giới. Các mối quan hệ được xác định cùng với các yếu tố thông suốt, tính cạnh tranh, sự bình đẳng và tri phí Đấu thầu điện tử.
Các từ khóa: Đấu thầu Điện tử Dược phẩm, Đấu thầu Điện tử, Đấu thầu Điện tử Dược phẩm tại các Bệnh viện thuộc hệ thống Công lập Việt Nam.
Giới thiệu
Trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nói chung và việc thực thi chính sách bảo hiểm xã hội nói riêng thì thuốc đóng một vai trò rất quan trọng. Cũng giống như các Quốc gia đang phát triển, chi phí thuốc ở Việt Nam chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng chi phí y tế. Theo tài khoản y tế Quốc gia năm 2008, số tiền chi cho thuốc đã tăng gấp đôi từ năm 2000 đến năm 2007, chiếm khoảng 40% tổng số chi phí y tế xã hội.
Số liệu thống kê về Bảo hiểm Xã hội Việt Nam gần đây đã cho thấy chi phí thuốc chiếm tỷ lệ cao lên đến 60-70% tổng chi phí bảo hiểm y tế.
Thị trường thuốc ở Việt Nam rất đa dạng và phong phú về số lượng và chất lượng. Năm 2009, trong số 22.615 số đăng ký thuốc có giá trị, có 10.692 và 11.923 dược phẩm trong nước nhập khẩu từ nước ngoài. Giá trị sản xuất trong nước tăng từ 111,4 triệu Đô la Mỹ năm 1996 lên đến 919 triệu Đô la Mỹ trong năm 2010. Dược phẩm sản xuất trong nước ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng số giá trị tiêu dùng dành cho thuốc, tăng từ 26% năm 1996 lên trên 48% trong năm 2010.
Thuốc đang ngày càng được sản xuất nhiều trong nước để đáp ứng nhu cầu điều trị. Trong năm 1996, sản xuất thuốc trong nước chỉ có khoảng 3.400 tên thuốc với dưới 200 hoạt tính. Nhưng hiện nay có khoảng 500 hoạt chất với 1.500 thành phần hoạt chất trong thuốc có tỷ lệ trong nước đã được đăng ký.
Việc cung cấp thuốc cho bệnh viện phải thông qua đấu thầu theo các quy định hiện hành. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có một số thiếu sót trong việc cung cấp thuốc cho bệnh nhân nói chung và bệnh nhân có bảo hiểm y tế nói riêng. Cơ chế đấu thầu truyền thống không có hiệu quả, cần phải điều chỉnh và tăng cường việc thực hiện quy trình đấu thầu tại bệnh viện và đồng thời cần phải điều chỉnh giá thuốc được hợp lý hơn.
Việc áp dụng đấu thầu điện tử để mua bán thuốc trong các bệnh viện công là điều quan trọng và không thể tránh khỏi để nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc cung ứng thuốc cũng như cải thiện những thiếu sót mà việc cung ứng thuốc truyền thống phải đối mặt.
Do còn yếu kém về hóa chất nên 90% nguyên liệu sản xuất thuốc tây được nhập khẩu. Các loại nguyên liệu dược phẩm nhập khẩu chủ yếu là kháng sinh và vitamin, chiếm hơn 80% giá trị nhập khẩu.
Trung Quốc và Ấn Độ là hai Quốc gia xuất khẩu nguyên liệu dược phẩm lớn nhất vào Việt Nam, lần lượt chiếm 25% và 21% trong năm 2008. Hiện tại, các công ty Việt Nam chủ yếu sản xuất thuốc thông thường, họ đang sử dụng nhiều loại nguyên liệu dược liệu với giá rẻ nhập khẩu từ Trung Quốc và Ấn Độ.
Ngành dược phẩm được tiếp cận với người tiêu dùng thông qua hệ thống phân phối điều trị và mạng lưới phân phối thương mại.
Mạng lưới phân phối Điều trị. Mạng lưới điều trị bao gồm các bệnh viện và các đơn vị điều trị khác ở các cấp khác nhau. Tổng số đơn vị khám và chữa bệnh của Việt Nam năm 2007 là 13.438 người. Hầu như tất cả các công ty dược phẩm muốn quảng bá kênh phân phối này do lượng tiêu thụ lớn.
Kênh tiêu thụ thuốc lớn nhất của Việt Nam đối với các sản phẩm xử lý là các bệnh viện công. Dược phẩm được cung cấp cho bệnh viện thông qua đấu thầu. Ngoài ra, việc bán hàng thông qua các bệnh viện chiếm một lượng vốn lưu động cao của các công ty dược phẩm vì các bệnh viện thường giải quyết thanh toán vào cuối năm.
Mạng lưới phân phối thương mại. Mạng lưới thương mại bao gồm các chi nhánh, đại lý, nhà phân phối và hệ thống nhà thuốc. Hiện nay, các công ty dược phẩm trong nước đang cố gắng hết sức để thúc đẩy kênh phân phối thương mại nhằm mục tiêu giảm sự phụ thuộc vào mạng lưới phân phối điều trị đang phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt. Mạng lưới phân phối này chủ yếu bao gồm các nhà phân phối nội địa. Trong khi đó chỉ có ba nhà phân phối nước ngoài trong thị trường bao gồm Zeullig Pharma, Diethelm và Megaproduct.
Trong nghiên cứu này, nhà nghiên cứu tập trung vào việc cung cấp các sản phẩm dược phẩm cho các bệnh viện công thông qua đấu thầu dược phẩm. Nhằm thúc đẩy ứng dụng thầu điện tử trong lĩnh vực dược phẩm, nhà nghiên cứu đã tiến hành nghiên cứu trong bối cảnh Tây Bắc.
Việc cung cấp các sản phẩm dược phẩm trong các bệnh viện công ở vùng Tây Bắc phản ánh nhiều đặc điểm chung của các quy định cung cấp dược phẩm của Việt Nam như cung cấp thuốc qua đấu thầu. Tại mỗi tỉnh, Bộ Y tế sẽ xây dựng kế hoạch đấu thầu hàng năm hoặc 6 tháng một lần (thuốc được mua theo danh mục thuốc thiết yếu). Ngân sách dành cho hồ sơ dự thầu này là từ (1) ngân sách Quốc gia, (2) bảo hiểm y tế, và (3) nguồn thu của bệnh viện. Nhà cung cấp dược phẩm là những người có khả năng, kinh nghiệm và điều kiện tham gia đấu thầu. Đấu thầu có giá trị trong vòng 1 năm.
Tuy nhiên, bản thân việc đấu thầu này mang rất nhiều vấn đề bao gồm:
Thông tin đấu thầu chỉ công khai trên "Tạp chí Đấu thầu". Trong khi đó đây là tạp chí khá xa lạ với nhiều người khiến cho nhiều nhà thầu không tiếp cận được các hồ sơ dự thầu.
Hồ sơ dự thầu chỉ được bán tại văn phòng của chủ thầu mà đôi khi tạo trở ngại địa lý cho nhiều nhà thầu.
Đôi khi một số nhân viên của chủ thầu thậm chí không muốn bán quá nhiều hồ sơ dự thầu để tránh đánh giá hồ sơ của nhiều nhà thầu.
Thời gian chuẩn bị và nộp hồ sơ dự thầu quá ngắn trong khi hầu hết các tỉnh thành
Tây Bắc khá xa khu vực trung tâm. Điều này làm cho nhiều nhà thầu không thể tham gia đấu thầu.
Quy mô đánh giá thầu phản ánh một số tiêu chí không công bằng.
Các đấu thầu truyền thống chi phí thời gian, nỗ lực và tiền rất nhiều.
Vấn đề Nghiên cứu
Các vấn đề đặc biệt cần được giải quyết trong phạm trù Phác thảo Truyền thống Hughes (2003) nhấn mạnh chi phí đáng kể liên quan đến việc đấu thầu chiếm khoảng 1,17% giá trị của công việc.
Khi được xem xét đối nghịch với tỷ lệ thành công có thể nói là 1/5, Hughes báo cáo rằng chi phí của mỗi giá thầu chiến thắng có thể đạt bằng 6% giá trị của gói thầu. Ngoài ra, 93% đối tượng được khảo sát về Thầu điện tử thực hiện bởi CITA vào năm 2006 đều cho rằng chi phí đấu thầu là tương đối tốn kém.
Các rào cản đối với việc áp dụng đấu thầu điện tử
Martin (2003) thông qua cuộc khảo sát Anh đã chỉ ra một số lợi ích của công nghệ hợp tác dự án trong đó một số lợi ích đã được thảo luận ở trên. Song hành với các lợi ích là một số mặt bất lợi.
Như đã thảo luận phía trên, hệ thống thầu điện tử như vậy có các yếu tố lợi ích như: tăng tính minh bạch, tăng tốc độ truyền thông tin và tăng khả năng tiếp cận. Xét về mặt tiêu cực, Martin cho biết các cá nhân tiết lộ tồn tại chi phí thời gian và tiền bạc để in các bản vẽ quy mô. Ngoài ra cũng xác định một số thành viên không có đủ năng lực IT (công nghệ thông tin) và còn tồn tại sự thiếu hụt các chỉ mục hồ sơ.
Bài báo của nhóm tác giả chủ đạo Eadie (2007) có liên quan nhiều hơn đến chuyên đề đấu thầu điện tử. Thông qua nghiên cứu và khảo sát tài liệu của họ, đã có mười một rào cản được đánh dấu cho quá trình đấu thầu điện tử thực hiện ở miền Bắc Ireland. Những rào cản này là: vị trí pháp lý về mua bán, văn hoá công ty, hỗ trợ quản lý cấp trên, cơ sở hạ tầng CNTT, hệ thống CNTT quá tốn kém, thiếu chuyên môn kỹ thuật, thiếu kiến thức cung ứng điện tử/ nhân viên có kỹ năng, thiếu mối quan hệ kinh doanh với các nhà cung cấp thiết bị điện tử, bảo mật giao dịch, mối quan tâm về khả năng tương tác, không nhận được lợi ích kinh doanh.
Các vấn đề minh bạch
Ngoài ra, "niềm tin" là một từ khóa sử dụng quá mức khi thảo luận về đấu thầu. Theo Kashiwagi, "Niềm tin và các quy tắc khuyến khích là không đủ. Sự minh bạch là điều cần thiết. Khi chỉ có niềm tin, rủi ro gia tăng". Khi có tính minh bạch, mọi người đều biết điều gì đang diễn ra và có thể giải quyết các vấn đề một cách kịp thời, giảm thiểu rủi ro và trách nhiệm. Do đó "niềm tin" là không cần thiết nữa. Công việc của nhà thầu là "Giáo dục khách hàng" và "khách hàng phải học cách buông bỏ kiểm soát". Kashiwagi nói điều này trong tiến trình đòi hỏi một "Thay đổi mô hình".
Tất nhiên sự thay đổi đó không xảy ra qua đêm. Và khi lắng nghe những vấn đề mà Peter Lundhus phải đối mặt với dự án Liên kết Fehmarnbelt, vấn đề đặt ra là bằng cách nào để bạn vượt qua những trở ngại cản trở việc giao tiếp và hợp tác, những đóng góp của nhà thầu chủ động?
Đối với Fehmarnbelt Link, Hiệp ước Nhà nước giữa Đan Mạch và Đức đã được ký năm 2006 với ý định xây dựng bắt đầu năm 2008 và hoàn thành vào năm 2020. Vấn đề đầu tiên nhóm Fehmarnbelt đối mặt là phải xác định xem một chiếc cầu hay một đường hầm có thể là một càu nối hợp lý nhất giữa miền Bắc Đức và miền Nam Đan Mạch.
Việc Đấu thầu Thuốc ở các Bệnh Viện thuộc Hệ thống Công lập Việt Nam
Trong quản lý thuốc, Nhà nước ban hành các quy định để đảm bảo các loại thuốc công được đấu thầu hiệu quả. Đồng thời bệnh nhân được cung cấp thuốc tốt và giá rẻ. Thông tư liên tịch số 10/2007 / TTLT-BYT-BTC ngày 10/8/2007 của Bộ Y tế - Bộ Tài chính hướng dẫn về 3 hình thức đấu thầu bao gồm:
Đấu thầu tập trung (mẫu 1). Với mẫu này, Bộ Y tế sẽ tổ chức đấu thầu tập trung các loại thuốc có nhu cầu thường xuyên và số lượng lớn cho tất cả các đơn vị y tế công cộng địa phương. Danh sách các loại thuốc đấu thầu sẽ được bổ xung dựa trên nhu cầu của các trung tâm chăm sóc sức khỏe cộng đồng địa phương. Các đơn vị y tế sẽ đấu thầu thuốc trực tiếp với các nhà cung cấp dịch vụ y tế đã chọn.
Đấu thầu đại diện (mẫu 2): Theo mẫu này, Bộ Y tế sẽ chỉ định một hoặc một số đơn vị y tế tổ chức đấu thầu đại diện (thường là một bệnh viện tuyến tỉnh và một bệnh viện tuyến huyện). Các loại thuốc truyền thống sẽ được bệnh viện truyền thống của tỉnh đấu thầu. Các đơn vị chăm sóc sức khoẻ cộng đồng khác sẽ sử dụng kết quả đấu thầu để mua dược phẩm. Áp dụng hình thức đấu thầu này, giá thuốc sẽ được cố định thống nhất trong toàn tỉnh. Nhưng danh mục thuốc các bệnh viện khác sẽ phụ thuộc vào danh sách các loại thuốc đã đấu thầu. Các nhà cung cấp thuốc đã được chọn sẽ trực tiếp cung cấp thuốc cho bệnh viện hoặc thông qua một nhà cung cấp có thẩm quyền.
Đấu thầu tự thực hiện (mẫu 3): Với hình thức này, các bệnh viện công sẽ tự tiến hành đấu thầu thuốc. Danh sách các loại thuốc đấu thầu sẽ được bổ xung dựa trên nhu cầu của mỗi bệnh viện. Giá cả thuốc được chọn lựa có thể không đồng nhất giữa các bệnh viện. Hình thức đấu thầu này thường được áp dụng ở các bệnh viện Trung ương.
Phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là 250 thương nhân bán thuốc ở Việt Nam do Bộ Y tế Việt Nam cung cấp. Tỷ lệ phản hồi mục tiêu được xác định dựa trên sự phân bố về mặt vị trí địa lý của các đối tượng nghiên cứu. Các đối tượng nghiên cứu được lựa chọn ngẫu nhiên làm mẫu nghiên cứu tại mỗi tỉnh thành nhằm thu được tỷ lệ tỷ lệ phản ứng dự kiến. Trong trường hợp sự phản hồi không được thu nhận một cách hợp lý từ một công ty bất kỳ trong danh danh sách mẫu thì sẽ có được thay thế bằng một công ty tiếp theo trong danh sách.
Phạm vi phỏng vấn dựa trên các biến số của mẫu nghiên cứu, bao gồm tính minh bạch, khả năng cạnh tranh, bình đẳng, phí đấu thầu và các thành phần tham gia Quốc tế. Vì vậy, người trả lời cần hiểu và có thẩm quyền cung cấp các dữ liệu cần thiết. Theo đó, thông thường họ là giám đốc của các công ty này.
Các biến số nghiên cứu bao gồm các biến nhân khẩu học, và hồ sơ đối tượng nghiên cứu. Nghiên cứu có các biến số độc lập (tính minh bạch, tính cạnh tranh, bình đẳng, phí đấu thầu và các thành phần tham gia Quốc tế) và một biến phụ thuộc (thầu dược phẩm). Bài nghiên cứu này đã áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng với mẫu nghiên cứu là 250 công ty hợp lệ. Giá trị Alpha Cronbach (α) được sử dụng để kiểm tra độ tin cậy của các biến số nghiên cứu.
Các kết quả của Alpha Cronbach (α) thu về được đều trên 0,9 đối với tất cả các biến. Cụ thể như sau:
Thống kê đáng tin cậy
Biến số Số.
|
Tên Biến số
|
Số mục
|
Alpha Cronbach (α)
|
Biến số 1
|
Tính minh bạch
|
5 mục
|
0.943
|
Biến số 2
|
Khả năng cạnh tranh
|
5 mục
|
0.999
|
Biến số 3
|
Bình đẳng
|
5 mục
|
0.912
|
Biến số 4
|
phí Đấu thầu
|
5 mục
|
0.927
|
Biến số 5
|
thành phần tham gia Quốc tế
|
5 mục
|
0.911
|
Các mức độ áp dụng đấu thầu điện tử
|
Phần trăm tổng số người khảo sát
|
Đã đấu thầu trực tuyến
|
21%
|
Có dự định đấu thầu trực tuyến sau 1- 2 năm nữa
|
63%
|
Không có dự định đấu thầu trực tuyến
|
16%
|
Tầm Quan trọng Chiến lược của Đấu thầu Điện tử
|
Phần trăm
|
Cực kỳ quan trọng
|
24%
|
Quan trọng
|
50%
|
Hoặc là quan trọng hoặc là không quan trọng
|
17%
|
Không quan trọng
|
3%
|
Cực kỳ không quan trọng
|
6%
|
Mẫu
|
R
|
Phương sai R
|
Phương sai R điều chỉnh
|
Lỗi Std ước tính
|
Biến động thống kê
|
||
Biến động phương sai
|
Biến động F
|
Biến động F có ý nghĩa
|
|||||
1
|
.865 a
|
.748
|
.746
|
.63987927
|
.746
|
67.043
|
.000
|
1
|
Mẫu
(không đổi)
Tính minh bạch
|
Hệ Số Không Tiêu Chuẩn
B Lỗi Std.
.003 0.42
.445 0.42
|
Hệ Số Tiêu Chuẩn
Beta
.444
|
T
0.69
10.494
|
Sig.
.945
.000
|
|
Tính cạnh tranh
|
.347
|
0.42
|
.347
|
8.199
|
.000
|
|
Chất lượng
|
.347
|
0.42
|
.346
|
8.182
|
.000
|
|
Phí thầu
|
.300
|
0.42
|
.299
|
7.075
|
.000
|
|
Sự tham gia Quốc tế
|
.271
|
0.42
|
.271
|
6.394
|
.000
|
Số
|
Giả thuyết
|
Kết quả
|
1
|
Có một mối quan hệ giữa đấu thầu điện tử dược phẩm và tính minh bạch.
|
Ủng hộ
|
2
|
Có một mối quan hệ giữa xúc tiến đấu thầu điện tử dược phẩm và năng lực cạnh tranh.
|
Ủng hộ
|
3
|
Có một mối quan hệ giữa xúc tiến đấu thầu điện tử dược phẩm và tính bình đẳng.
|
Ủng hộ
|
4
|
Có một mối quan hệ giữa xúc tiến đấu thầu điện tử dược phẩm và lệ phí đấu thầu.
|
Ủng hộ
|
5
|
Có một mối quan hệ giữa xúc tiến đấu thầu điện tử dược phẩm và sự tham gia của Quốc tế.
|
Ủng hộ
|
Giới hạn Nghiên cứu
Giới hạn rõ ràng nhất của nghiên cứu là thiết kế nghiên cứu tại một thời điểm. Do đó, không thể rút ra kết luận bệnh viện về hướng dẫn nhân quả bao hàm trong các mối quan hệ. Theo đó, các mối quan hệ giữa các biến phải được giải thích cẩn thận. Chỉ có thể sử dụng dữ liệu theo chiều dọc mới rút ra được các kết luận nhân quả thực sự. Điều này đặc biệt quan trọng đối với đối tượng nghiên cứu như ứng dụng công nghệ luôn luôn thay đổi theo thời gian trong quá trình phát triển.
Vì chỉ sử dụng các biện pháp tự báo cáo, phương sai phương pháp chung và tính đồng nhất của các câu trả lời đã chệch với các mối quan hệ được quan sát. Tuy nhiên, nhận thức hữu ích và dễ sử dụng không phải là các biện pháp khách quan. Bởi vì các nhận thức cần thiết tự báo cáo, các biện pháp như thế là hiệu quả nhất trong việc đo lường những nhận thức này. Do đó, nghiên cứu áp dụng các công nghệ mới không thể tránh khỏi bị chỉ trích.
Việc thu thập dữ liệu chỉ tập trung ở sáu tỉnh tương đối ở Tây Bắc vì những khó khăn đã gặp phải trong quá trình thu thập dữ liệu. Việc mở rộng nghiên cứu tại các vùng khác nhau của Việt Nam sẽ giúp nghiên cứu có kết quả tổng quát hóa tốt hơn. Đồng thời việc thu thập dữ liệu trong suốt quá trình đấu thầu thực sự có thể rút ra được các câu trả lời tốt hơn cải thiện kết quả nghiên cứu.
Mẫu nghiên cứu bao gồm 230 cán bộ quản lý và cán bộ của các bệnh viện công, bệnh viện ngoài công lập, các công ty dược phẩm và các Cơ quan Chính phủ. Mẫu này chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số bệnh viện trong nước. Vì vậy, các nghiên cứu với quy mô mẫu lớn hơn sẽ được yêu cầu để đảm bảo tính tổng quát thích hợp của kết quả nghiên cứu.
Nghiên cứu này dựa chủ yếu vào phương pháp định lượng thu thập số liệu (mặc dù có sử dụng đến phương pháp định tính ở mức độ hạn chế). Và do đó nghiên cứu này bị hạn chế. Do đó, trong tương lai cần tiến hành thêm nhiều phương pháp định lượng để thu thập dữ liệu nhằm đạt được quan điểm rộng hơn cho nghiên cứu này. Ví dụ, thiết kế nghiên cứu có thể sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp hoặc phân tích nội dung để có được một bức tranh toàn cảnh cho đối tượng nghiên cứu.
16. W. Vickrey. Đếm đạc, đấu giá và đấu thầu niêm phong cạnh tranh. Tạp chí Tài chính, 16 (1): 8-37, Tháng 3 năm 1961.