Thứ sáu, 25/05/2018 | 11:52 GMT+7
[Nghiên cứu] Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp
Assess the effectiveness of using State capital in enterprises
ThS. Chu Quốc Tế*
Tóm tắt
Chủ trương của Nhà nước cần đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân, cùng với nó việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và doanh nghiệp cổ phần luôn là vấn đề sống còn nhằm bảo tồn và phát triển vốn nhà nước. Nghiên cứu hiệu quả sử dụng vốn tại các DNNN là một việc làm cần thiết nhằm đánh giá đúng thực trạng sử dụng vốn và hoạt động của DNNN, từ đó, đề xuất cơ chế chính sách giúp cơ quan quản lý nhà nước các cấp kịp thời phát hiện các yếu kém trong quá trình hoạt động kinh doanh của DNNN để có biện pháp chấn chỉnh kịp thời. Việt Nam trong những năm gần đây đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế thì việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại DNNN càng trở nên cấp thiết. Quản lý tốt vốn nhà nước tại các DNNN có ý nghĩa rất quan trọng nhằm bảo đảm tài sản quốc gia và giữa vững vị trí chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế quốc dân.
Overview
The policy of State is to strengthen the private economic setor and increase the effectiveness of using capital in Stated-fund enterprises which is the fundamental matter in order to garanteer the State capital. Study of the effectiveness in using capital in State enterprises is neccessary in order to assess the capital and operation effectiveness of enterprises, to promote the policies that help Stated organisations
Thực tế, các DNNN nắm giữ lượng vốn lớn, có giá trị tổng tài sản cao, đóng góp nguồn thu lớn cho NSNN. Khối tài sản nằm trong các DNNN, doanh nghiệp có vốn nhà nước được ước tính lên tới gần 400 tỷ USD. Hiện việc quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp rất phân tán và do nhiều đầu mối đảm nhận, bao gồm Chính phủ, các bộ, ngành, ủy ban nhân dân các tỉnh và Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC). Tình trạng các Bộ và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố thực hiện đồng thời cả ba chức năng: quản lý nhà nước về kinh tế, chủ quản cấp trên đối với doanh nghiệp và đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp vẫn còn phổ biến. Cơ chế quan lý này đã và đang làm suy giảm hiệu quả sử dụng vốn tại các DNNN.
Hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của các DNNN vẫn chưa tương xứng với nguồn lực, doanh thu chỉ đạt 1.709.171 tỷ đồng và lợi nhuận là 166.941 tỷ đồng. Trong khi đó, các DNNN vẫn đầu tư vào một số lĩnh vực không thuộc ngành nghề kinh doanh chính như: ngân hàng (13.152 tỷ đồng), bất động sản (6.089 tỷ đồng), chứng khoán (1.106 tỷ đồng)… Dù số lượng DNNN đã giảm nhưng cơ cấu vốn của khu vực này thời gian qua gần như không thay đổi, tỷ trọng vốn vay so với tổng nguồn vốn của DN luôn lớn. Theo báo cáo của Bộ Tài chính, năm 2012 dư nợ vay ngân hàng của DNNN là 402.955 tỷ đồng, chiếm 43,7% tổng ngồn vốn. Tổng số nợ phải trả của các TĐ, TCT năm 2012 là 1.348.752 tỷ đồng, chiếm 56% tổng ngồn vốn. Trong đó, có 48 TĐ, TCT có tỷ lệ nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu trên 3 lần, chủ yếu tập trung vào các DN thuộc lĩnh vực xây dựng, xây dựng giao thông. Ngoài vấn đề nợ, tình hình tài chính tại nhiều TĐ, TCT còn chưa đảm bảo các yêu cầu về an toàn tài chính, tiềm tàng nhiều nguy cơ rủi ro vì kinh doanh không hiệu quả, thua lỗ như TĐ Điện lực Việt Nam; nhiều tiêu cực, tội phạm đã sảy ra như: TCT Công nghiệp tàu thủy, TCT Hàng hải Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam.
Sự cứng nhắc về cơ cấu vốn đôi khi gây khó khăn cho doanh nghiệp nhà nước trong việc phát triển và hoàn thành các mục tiêu DN. Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu cần xây dựng một chính sách tổng thể và tạo cơ chế cho phép thay đổi cơ cấu vốn của doanh nghiệp nhà nước một cách thích hợp.
Nhà nước thường bảo lãnh cho DNNN để bù đắp cho việc nhà nước không thể cung cấp đủ vốn chủ sở hữu cho DN, nhưng điều kiện thuận lợi này thường bị lạm dụng. Nguyên tắc chung là nhà nước không được tự động bảo lãnh các khoản nợ của DNNN. Do đó cần phân định rõ trách nhiệm liên quan tới chủ nợ của nhà nước và của DNNN. Các vấn đề liên quan tới công bố thông tin và chi phí cho bảo lãnh của nhà nước cần được xây dựng và doanh nghiệp nhà nước phải được khuyến khích tìm kiếm nguồn tài chính từ thị trường vốn.
I. Vốn và sử dụng vốn tại doanh nghiệp nhà nước.
1.1 Vốn nhà nước
Để các doanh nghiệp có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp này phải có vốn, vốn này bao gồm vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp và vốn do doanh nghiệp đó huy động. Trong thực tế, đối với các doanh nghiệp không phải là DNNN thì phần vốn doanh nghiệp huy động có thể là vốn của tư nhân hoặc vốn của nhà nước. Đối với các DNNN để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh của mình cần phải có vốn, vốn này bao gồm vốn chủ sở hữu của DNNN và vốn do DNNN đó huy động. Theo Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014, Vốn của doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ bao gồm vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp và vốn do doanh nghiệp huy động (Khoản 9, Điều 3). Trong đó, vốn chủ sở hữu của DNNN thực chất là vốn nhà nước hay còn gọi là vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp, vốn này là “số vốn thuộc sở hữu nhà nước mà chủ sở hữu là Nhà nước và đối tượng sở hữu là vốn được pháp luật hiện hành thừa nhận thuộc chủ quyền của quốc gia, của Nhà nước” [37, tr. 10], bao gồm vốn từ ngân sách nhà nước, vốn tiếp nhận có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước; vốn từ quỹ đầu tư phát triển tại doanh nghiệp, quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp; vốn tín dụng do Chính phủ bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn khác được Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp (khoản 8, Điều 3, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014).
Trong thực tế, hoạt động của DNNN hiện nay chủ yếu dựa vào vốn nhà nước đầu tư. Tại Điều 3 Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014 quy định: “Vốn Nhà nước tại doanh nghiệp bao gồm vốn từ ngân sách Nhà nước, vốn tiếp nhận có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước; vốn từ quỹ đầu tư phát triển tại doanh nghiệp, quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp; vốn tín dụng do Chính phủ bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn khác được Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp”.
Tại Điều 4 giải thích từ ngữ Luật Đấu thầu năm 2013 quy định: “Vốn Nhà nước bao gồm vốn ngân sách Nhà nước; công trái quốc gia, trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương; vốn hỗ trợ phát triển chính thức, vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ; vốn từ quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp; vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước; vốn tín dụng do Chính phủ bảo lãnh; vốn vay được bảo đảm bằng tài sản của Nhà nước; vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước; giá trị quyền sử dụng đất”.
Tại Điều 4 Luật Ngân sách Nhà nước năm 2015 quy định: “Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước được dự toán và thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”.
Đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp là việc Nhà nước sử dụng vốn từ ngân sách nhà nước hoặc vốn từ các quỹ do Nhà nước quản lý để đầu tư vào doanh nghiệp. Vốn nhà nước tại doanh nghiệp bao gồm vốn từ ngân sách nhà nước, vốn tiếp nhận có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước; vốn từ quỹ đầu tư phát triển tại doanh nghiệp, quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp; vốn tín dụng do Chính phủ bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn khác được Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp.
Như thế, thực chất vốn nhà nước tại DNNN chính là biểu hiện bằng tiền, là giá trị của tài sản mà DNNN đang nắm giữ nhưng do nhà nước làm chủ sở hữu, tuy nhiên, phần vốn này không phải là phần vốn của các công ty mẹ (tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước) đầu tư vào các công ty con, công ty liên kết. Theo đó vốn nhà nước trong DNNN được quan niệm là toàn bộ giá trị bằng tiền hay giá trị bằng tài sản do nhà nước đầu tư để ứng ra ban đầu và trong các quá trình sản xuất tiếp theo của DNNN, đây là nguồn lực số một của hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
1.2. Đặc điểm và vai trò của vốn trong doanh nghiệp nhà nước
Đặc điểm của vốn trong doanh nghiệp nhà nước
Vốn trong DNNN có đặc điểm chung giống như vốn trong các DN khác, đó là:
Thứ nhất, vốn đại diện cho một lượng tài sản nhất định, có nghĩa là vốn được biểu hiện bằng giá trị của tài sản hữu hình và vô hình của doanh nghiệp.
Thứ hai, vốn vận động sinh lời, đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ ba, vốn được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định, có như vậy mới có thể phát huy tác dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Thứ tư, vốn gắn liền với chủ sở hữu nhất định, không thể có đồng vốn vô chủ và không ai quản lý.
Thứ năm, vốn được quan niệm như một hàng hóa đặc biệt, có thể mua bán quyền sử dụng vốn trên thị trường.
Tuy nhiên bên cạnh đó, vốn trong DNNN có những đặc điểm riêng sau:
- Vốn trong DNNN bao gồm vốn chủ sở hữu của DNNN và vốn do DNNN huy động. Vốn chủ sở hữu của DNNN thực chất là vốn nhà nước, đây là khoản vốn được lấy ra từ ngân sách nhà nước hàng năm để đầu tư tại các DNNN nhằm đảm bảo ổn định nguồn vốn và vai trò người đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước trong DN.
- Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước là vốn cấp từ NSNN cho doanh nghiệp khi thành lập, trong quá trình hoạt động kinh doanh, vốn nhà nước được tiếp nhận từ nơi khác chuyển đến theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền; giá trị của các khoản viện trợ, quà biếu, quà tặng; tài sản vô chủ, tài sản dôi thừa khi kiểm kê DNNN được hoạch toán tăng vốn nhà nước tại DNNN; vốn bổ sung từ lợi nhuận sau thuế; giá trị quyền sử dụng đất và các khoản khác được tính vào vốn nhà nước theo quy định pháp luật.
- Vốn trong DNNN chiếm đa số là vốn nhà nước.
Tỷ lệ vốn nhà nước trong tổng vốn của DNNN luôn trên 50%. Mặc dù tỷ lệ này được quy định khác nhau ở mỗi quốc gia và quy sự quy định khác nhau ở mỗi giai đoạn phát triển ở mỗi nước, nhưng tỷ lệ vốn nhà nước chiếm tỷ lệ chi phối trong DNNN luôn không thay đổi, luôn trên 50%, có thể 100%. Quy định này nhằm đảm bảo vai trò của Nhà nước trong việc quyết định chi phối hoạt động doanh nghiệp.
Vai trò của vốn trong doanh nghiệp nhà nước
Vốn là yếu tố cơ bản không thể thiếu được của mọi quá trình sản xuất kinh doanh và đồng thời, vốn cùng là yếu tố quan trọng đối với sự tăng trưởng, phát triển của đất nước, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, vốn là điều kiện tiên quyết có ý nghĩa quyết định tới mọi khâu của quá trình sản xuất kinh doanh.
Tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh, dù bất kỳ quy mô nào cũng cần phải có một lượng vốn nhất định, nó là tiền đề cho sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp.
Về mặt pháp lý: DNNN khi muốn thành lập, điều kiện đầu tiên là doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định, lượng vốn đó tối thiểu phải bằng lượng vốn pháp định (lượng vốn tối thiểu mà pháp luật qui định cho từng loại DNNN). Khi đó địa vị pháp lý của doanh nghiệp mới được xác lập. Ngược lại, việc thành lập doanh nghiệp không thể thực hiện được. Theo điều 4- chương II Quy chế quản lý Tài chính và Hạch toán kinh doanh đối với DNNN, nếu trong quá trình hoạt động kinh doanh, vốn điều lệ của doanh nghiệp không đạt điều kiện mà pháp luật quy định, tức là thấp hơn tổng mức vốn pháp định của các ngành nghề mà doanh nghiệp đó kinh doanh thì cơ quan có thẩm quyền quyết định thành lập doanh nghiệp đó phải cấp bổ sung vốn điều lệ cho doanh nghiệp, hoặc giảm ngành nghề kinh doanh cho doanh nghiệp hoặc phải tuyên bố chấm dứt hoạt động như: phá sản, giải thể, sát nhập…. Như vậy, vốn có thể được xem như là điều kiện tiên quyết đảm bảo sự tồn tại tư cách pháp nhân của doanh nghiệp trước pháp luật.
Về mặt kinh tế: Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn là một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Vốn không những đảm bảo khả năng mua sắm máy móc thiết bị, dây truyền công nghệ để phục vụ cho quá trình sản xuất mà còn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra thường xuyên liên tục.
Vốn là yếu tố quan trọng quyết định năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và xác lập vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Điều này càng thể hiện rõ trong nền kinh tế thị trường hiện nay với sự cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, đầu tư hiện đại hóa công nghệ... tất cả những yếu tố này muốn đạt được đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn đủ lớn.
Vốn cũng là yếu tố quyết định đến việc mở rộng phạm vi hoạt động của doanh nghiệp. Có vốn giúp doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, thâm nhập vào thị trường mới, từ đó mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thương trường.
Nhận thức được vai trò quan trọng của vốn như vậy, doanh nghiệp cần phải có những biện pháp hữu hiệu huy động đảm bảo đủ vốn cho doanh nghiệp hoạt động một cách hiệu quả.
1.3. Sử dụng vốn tại doanh nghiệp nhà nước
Sử dụng vốn tại DNNN là việc đưa vốn vào sản xuất, kinh doanh nhằm đem lại lợi nhuận cho DN. Trên thực tế, sử dụng vốn tại DNNN được thực hiện theo hai hình thức: sử dụng vốn trong phạm vi DNNN và sử dụng vốn đầu từ ra ngoài phạm vi DNNN.
Thứ nhất, sử dụng vốn trong phạm vi DNNN.
Trong nền kinh tế thị trường, DNNN là một đơn vị sản xuất kinh doanh độc lập, được tự chủ trong hoạt động kinh tế và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước thực hiện việc giao quyền sử dụng vốn và tài sản cho doanh nghiệp nhằm tạo ra sự độc lập tương đối trong việc tổ chức sản xuất kinh doanh. Mục tiêu cuối cùng của chính sách quản lý sử dụng vốn và tài sản là bảo toàn và phát triển vốn tại doanh nghiệp. Vì thế, DNNN có nghĩa vụ theo dõi chặt chẽ sự biến động của vốn và tài sản, đảm bảo theo đúng các nguyên tắc kế toán hiện hành, tránh thất thoát tài sản, mất vốn của nhà nước. Đồng thời doanh nghiệp cũng phải được trao quyền lựa chọn cơ cấu tài sản và các loại vốn cho hợp lý nhằm phát triển kinh doanh có hiệu quả.
Trên tinh thần đó, DNNN có trách nhiệm mở sổ và ghi sổ kế toán theo dõi chính xác toàn bộ tài sản và vốn hiện có theo đúng chế độ hạch toán kế toán, thống kê hiện hành; phản ánh trung thực, kịp thời tình hình sử dụng, biến động của tài sản và vốn trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Theo đó, DNNN được quyền sử dụng vốn và qũy để kinh doanh theo nguyên tắc có hiệu qủa, bảo toàn và phát triển vốn. Trường hợp sử dụng các loại vốn và qũy khác với mục đích sử dụng đã quy định cho các loại vốn và qũy đó thì phải theo nguyên tắc hoàn trả, như: dùng các qũy dự phòng, qũy khen thưởng, qũy phúc lợi...để kinh doanh thì phải hoàn trả qũy đó khi có nhu cầu sử dụng. Những DN này được quyền thay đổi cơ cấu tài sản và các loại vốn cho việc phát triển kinh doanh có hiệu qủa, bảo toàn và phát triển vốn.
Cùng với đó, các DNNN phải xây dựng quy chế quản lý, bảo quản, sử dụng tài sản của doanh nghiệp; quy định rõ trách nhiệm của từng bộ phận, cá nhân đối với các trường hợp làm hư hỏng, mất mát tài sản. Định kỳ và khi kết thúc năm tài chính doanh nghiệp phải tiến hành kiểm kê toàn bộ tài sản và vốn hiện có; xác định chính xác số tài sản thừa, thiếu, tài sản ứ đọng, mất phẩm chất, nguyên nhân và xử lý trách nhiệm; đồng thời để có căn cứ lập báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải mở sổ theo dõi chi tiết tất cả các khoản công nợ phải thu trong và ngoài doanh nghiệp. Định kỳ (tháng, qúy) doanh nghiệp phải đối chiếu, tổng hợp, phân tích tình hình công nợ phải thu; đặc biệt là các khoản nợ đến hạn, qúa hạn và các khoản nợ khó đòi. Các khoản nợ không thu hồi được, cần xác định rõ mức độ, nguyên nhân, trách nhiệm và biện pháp xử lý.
Trong quá trình sản xuất, kinh doanh của mình, các DNNN được quyền cho thuê hoạt động các tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của mình, để nâng cao hiệu suất sử dụng, tăng thu nhập nhưng phải theo dõi, thu hồi tài sản khi hết hạn cho thuê. Đối với tài sản cho thuê hoạt động, DN vẫn phải trích khấu hao theo chế độ quy định. DN được đem tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của mình để cầm cố, thế chấp vay vốn hoặc bảo lãnh tại các tổ chức tín dụng theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật. DN không được đem cầm cố, thế chấp, cho thuê các tài sản đi mượn, đi thuê, nhận giữ hộ, nhận cầm cố, nhận thế chấp ... của DN khác nếu không được sự đồng ý của chủ sở hữu tài sản đó.
Ngoài ra, DNNN được nhượng bán các tài sản không cần dùng, lạc hậu về kỹ thuật để thu hồi vốn sử dụng cho mục đích kinh doanh có hiệu qủa hơn. Chênh lệch giữa số tiền thu được do thanh lý, nhượng bán tài sản với giá trị còn lại trên sổ kế toán và chi phí nhượng bán, thanh lý (nếu có) được hạch toán vào kết qủa kinh doanh của doanh nghiệp. Mọi tổn thất tài sản của DN phải lập biên bản xác định mức độ, nguyên nhân và trách nhiệm đưa ra biện pháp xử lý. DN được đánh giá lại tài sản và hạch toán tăng giảm vốn khoản chênh lệch do đánh giá lại tài sản trong các trường hợp sau: Kiểm kê đánh giá lại tài sản theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; Thực hiện cổ phần hóa, đa dạng hóa hình thức sở hữu, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp; Dùng tài sản để liên doanh, góp vốn cổ phần (khi đem tài sản đi góp vốn và khi nhận tài sản về).
Thứ hai, sử dụng vốn đầu tư ra ngoài phạm vi DNNN.
DNNN được sử dụng vốn, tài sản để đầu tư ra ngoài DN theo nguyên tắc có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn, tăng thu nhập và đảm bảo nhiệm vụ thu nộp Ngân sách nhà nnớc; việc đầu tư phải tuân theo các quy định hiện hành của pháp luật.. Các hình thức đầu tư ra ngoài DN gồm: mua cổ phiếu, góp vốn liên doanh, góp cổ phần và các hình thức đầu tư khác ... DNNN được phép đưa vốn và tài sản đầu tư trực tiếp ra nước ngoài theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình sử dụng vốn, DNNN phải có nghĩa vụ bảo toàn và phát triển vốn. Bảo toàn vốn và phát triển vốn là nghĩa vụ của DNNN để bảo vệ lợi ích của Nhà nước về vốn đã đầu tư vào doanh nghiệp Nhà nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp ổn định và phát triển kinh doanh có hiệu quả, tăng thu nhập cho người lao động và làm nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước. Các biện pháp bảo toàn vốn thường được áp dụng là:
-Thực hiện đúng chế độ quản lý, sử dụng vốn, tài sản theo các quy định của Nhà nước;
-Thực hiện việc mua bảo hiểm tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp. Tiền mua bảo hiểm được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh;
- DNNN được hạch toán vào chi phí kinh doanh, chi phí hoạt động khác một số khoản dự phòng theo quy định như: Dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng các khoản nợ thu khó đòi, dự phòng giảm giá các loại chứng khoán trong hoạt động tài chính...
Việc lập và sử dụng các khoản dự phòng nói trên thực hiện theo quy định hiện hành. Ngoài các biện pháp trên, doanh nghiệp được dùng lãi năm sau (trước thuế hoặc sau thuế) để bù lỗ các năm trước, được hạch toán một số thiệt hại (thiên tai, dịch bệnh ...) vào chi phí hoặc kết qủa kinh doanh theo qui định của Nhà nước.
II. Hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp nhà nước
2.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp nhà nước
Để đánh giá trình độ quản trị điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp, người ta sử dụng thước đo là hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được đánh giá trên hai góc độ: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.Trong phạm vi quản trị doanh nghiệp, người ta chủ yếu quan tâm đến hiệu quả kinh tế. Đây là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất với chi phí hợp lý nhất. Do đó các nguồn lực kinh tế đặc biệt là nguồn vốn của doanh nghiệp có tác động rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu mang tính thường xuyên và bắt buộc đối với mỗi doanh nghiệp. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu mang tính thường xuyên và bắt buộc đối với mỗi doanh nghiệp. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp ta thấy được hiệu quả của hoạt động kinh doanh nói chung và quản trị sử dụng vốn nói riêng.
Hiệu quả sử dụng vốn của DNNN là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác, sử dụng và quản trị vốn làm cho đồng vốn sinh lời tối đa nhằm mục tiêu cuối cùng của DNNN là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu, góp phần vào bảo đảm và phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Hiệu quả sử dụng vốn được lượng hoá thông qua hệ thống các chỉ tiêu về khả năng hoạt động, khả năng sinh lời, tốc độ luân chuyển vốn…. Nó phản ánh quan hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh thông qua thước đo tiền tệ hay cụ thể là mối tương quan giữa kết quả thu được với chí phí bỏ ra để thực hiện sản xuất kinh doanh. Kết quả thu được càng cao so với chi phí bỏ ra thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Do đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là điều kiện quan trọng để doanh nghiệp phát triển vững mạnh. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp phải đảm bảo các điều kiện sau:
- Phải khai thác nguồn vốn một cách triệt để nghĩa là không để vốn nhàn rỗi mà không sử dụng, không sinh lời.
- Phải sử dụng vốn một cách hợp lý và tiết kiệm
- Phải quản trị vốn một cách chặt chẽ nghĩa là không để vốn bị sử dụng sai mục đích, không để vốn thất thoát do buông lỏng quản trị.
Ngoài ra DNNN phải thường xuyên phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng vốn để nhanh chóng có biện pháp khắc phục những mặt hạn chế và phát huy những ưu điểm của DNNN trong quản trị và sử dụng vốn.
2.2. Các chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp nhà nước
Cũng như các doanh nghiệp nói chung, việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn tại DNNN dựa trên các tiêu chí cơ bản sau:
Các chỉ tiêu đánh giá tổng hợp
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp một cách chung nhất người ta thường dùng một số chỉ tiêu tổng quát như: hệ số bảo tồn vốn, hệ số vòng quay vốn, sức sinh lời vốn, sức sinh lời vốn chủ sở hữu, v.v.. Trong đó:
- Hệ số bảo tồn vốn (H)
Chỉ số này xác định rõ việc doanh nghiệp sau một chu kỳ sản xuất, kinh doanh có làm gia tăng lượng vốn đầu tư hay không. Nếu H< 1, doanh nghiệp không bảo toàn được vốn; H=1, doanh nghiệp bảo toàn được vốn; H>1, vốn của doanh nghiệp được bảo toàn và ngày càng phát triển.
- Hệ số quay vòng vốn (S/A)
Chỉ tiêu này cho thấy hiệu suất sử dụng vốn của doanh nghiệp, nghĩa là vốn quay bao nhiêu vòng trong năm. Hệ số này càng cao cho thấy doanh nghiệp sử dụng vốn hiệu quả.
- Sức sinh lời của vốn (ROA)
Trong đó:
Sức sinh lời của vốn (còn gọi là tỷ suất lợi nhuận vốn) cho biết cứ 01 đồng vốn sử dụng vào sản xuất kinh doanh thì có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. ROA càng lớn thì chứng tỏ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp càng hiệu quả.
- Sức sinh lời của vốn chủ sở hữu (ROE)
Trong đó:
Sức sinh lời của vốn chủ sở hữu (còn gọi là tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu) đo lượng mức sinh lời của mỗi đồng vốn chủ sở hữu, nó phản ánh trình độ sử dụng vốn của những người quản lý doanh nghiệp, sức sinh lời của vốn chủ sở hữu cho biết một đồng vốn mà các cổ đông bỏ ra thu được bao nhiêu đồng lãi. Nhà đàu tư quan tâm nhất đến chỉ tiêu này, vì vậy nếu ROE cao sẽ giúp doanh nghiệp có thể tìm được nguồn vốn mới trên thị trường tài chính để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư phát triển, làm cho doanh nghiệp không ngừng phát triển. Ngược lại, nếu ROE thấp và dưới mức của hệ số sinh lời cần thiết trên thị trường thì doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc huy động vốn nói chung và đặc biệt là vốn chủ sở hữu nõi riêng.
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu, trình độ sử dụng vốn của người quản trị doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. Tuy nhiên chỉ tiêu này có hạn chế là nó phản ánh một cách phiến diện. Do mẫu số chỉ đề cập đến vốn chủ sở hữu bình quân trong kỳ, trong khi hầu hết các doanh nghiệp nguồn vốn huy động từ bên ngoài chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong tổng nguồn vốn. Do đó nếu chỉ nhìn vào chỉ tiêu này nhiều khi đánh giá thiếu chính xác.
- Hệ số khả năng thanh toán tổng quát (KTQ)
Hệ số khả năng thanh toán tổng quát là chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán chung của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo. Chỉ tiêu này cho biết: với tổng số tài sản hiện có, doanh nghiệp có bảo đảm trang trải được các khoản nợ phải trả hay không. Nếu KTQ ≥ 1, doanh nghiệp bảo đảm được khả năng thanh toán tổng quát và ngược lại, KTQ < 1, doanh nghiệp không bảo đảm được khả năng trang trải các khoản nợ. Hệ số KTQ càng nhỏ hơn 1, doanh nghiệp càng mất dần khả năng thanh toán.
Những chỉ tiêu trên cho ta một cái nhìn tổng quát về hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Ngoài ra người ta còn sử dụng một số chỉ tiêu khác như tỷ suất thanh toán ngắn hạn, số vòng quay các khoản phải thu…. T uy nhiên như ta đã biết nguồn vốn của doanh nghiệp được phân làm hai loại là vốn cố định(VCĐ) và vốn lưu động(VLĐ). Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm đến việc đo lường hiệu quả sử dụng vốn của tổng nguồn vốn mà còn chú trọng đến hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành nguốn vốn của doanh nghiệp đó là VCĐ và VLĐ.
Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Vốn lưu động = Tài sản ngắn hạn – các khoản phải trả ngắn hạn
Hiệu quả sử dụng VLĐ được biểu hiện các chỉ số tài chính như tốc độ luân chuyển VLĐ, sức sinh lời của VLĐ.
* Tốc độ luân chuyển vốn lưu động
Để đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ người ta cũng đặc biệt quan tâm đến tốc độ luân chuyển VLĐ, vì trong quá trình sản xuất kinh doanh,VLĐ không ngừng vận động qua các hình thái khác nhau. Do đó đẩy nhanh tốc độ luân chuyển VLĐ sẽ góp phần giải quyết về nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Tốc độ luân chuyển VLĐ là chỉ tiêu tài chính phản ánh năng lực sử dụng vốn hiệu quả của đồng vốn trong lưu thông. Chỉ tiêu này gắn liền với hai nhân tố: số vòng quay VLĐ và số ngày chu chuyển VLĐ.
- Số vòng quay vốn lưu động
Chỉ tiêu này phản ánh VLĐ được thực hiện trong một kỳ nhất định, thường tính trong một năm. Số vòng quay VLĐ cho biết VLĐ quay được mấy vòng trong kỳ. Nếu số vòng quay tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng VLĐ tăng và ngược lại.
- Thời gian chu chuyển vốn lưu động
Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết cho VLĐ quay được một vòng. Thời gian của một vòng càng nhỏ thể hiện tốc độ luân chuyển càng lớn.
* Hiệu suất sử dụng vốn lưu động
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng VLĐ có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ.
* Hàm lượng vốn lưu động
Đây là mức đảm nhận VLĐ, phản ánh số VLĐ cần có thể đạt được một đồng doanh thu trong kỳ. Chỉ tiêu này nhỏ thì hiệu quả sử dụng VLĐ càng cao và ngược lại.
* Suất hao phí của vốn lưu động
Đây là chỉ tiêu phản ánh số VLĐ cần thiết để tạo ra một đồng lợi nhuận.
Việc sử dụng các tiêu chí về hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong các doanh nghiệp cũng đòi hỏi hết sức thận trọng bởi những chỉ tiêu tổng hợp. Mỗi chỉ tiêu cũng có những mặt hạn chế nhất định. Vấn đề phải lựa chọn các chỉ tiêu phân tích để có thể bổ sung cho nhau nhằm đánh giá chính xác hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó cải tiến việc sử dụng VLĐ.
* Hiệu quả sử dụng các thành phần của vốn lưu động
- Tỷ số hoạt động tồn kho (HTK)
Chỉ số này đánh giá hiệu quả quản lý tồn kho của doanh nghiệp; tỷ số này có thể đo lường bằng chỉ số vòng quay hàng tồn kho một năm và số ngày tồn kho.
+ Số vòng quay hàng tồn kho: chỉ số này cho biết bình quân hàng tồn kho quay được bao nhiêu vòng trong kỳ để tạo ra doanh thu.
+ Thời gian một vòng quay của hàng tồn kho: chỉ số này cho biết bình quân hàng tồn kho của doanh nghiệp mất hết bao nhiều ngày.
- Kỳ thu tiền bình quân
Chỉ số này dùng để đo lường hiệu quả và chất lượng quản lý khoản phải thu. Nó cho biết bình quân mất bao nhiêu ngày để công ty có thể thu hồi khoản phải thu. Chỉ số này được đo bằng vòng quan khoản phải thu và số ngày của một vòng quay khoản phải thu.
+ Vòng quay khoản phải thu (KPT): chỉ tiêu này cho biết bình quân khoản phải thu quay được bao nhiêu vòng trong kỳ để tạo ra doanh thu. Vòng quay phải thu càng cao thì kỳ thu tiền bình quân càng thấp và ngược lại.
+ Thời gian của một vòng quay khoản phải thu: chỉ tiêu này cho biết bình quân doanh nghiệp phải mất bao nhiêu ngày cho một khoản phải thu.
Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết cho VLĐ quay được một vòng, thời gian của một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển của VLĐ càng lớn và làm rút ngắn chu kỳ kinh doanh, vốn quay vòng hiệu quả hơn.
. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
Vốn cố định = Giá trị tài sản dài hạn – Khấu hao tài sản cố định lũy kế
* Hiệu suất sử dụng vốn cố định
Để đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ người ta sử dụng những chỉ tiêu sau:
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần trong một năm.
Chỉ tiêu này cho biết trung bình một đồng VCĐ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn càng chứng tỏ việc sử dụng VCĐ là có hiệu quả.
Ngoài hai chỉ tiêu trên người ta còn sử dụng nhiều chỉ tiêu khác để đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ như : hệ số đổi mới tài sản cố định, hệ số loại bỏ tài sản cố định….
* Hiệu quả sử dụng vốn cố định
Hiệu quả sử dụng VCĐ phản ánh 100 đồng VCĐ trong kỳ bỏ ra tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.
* Hệ số hàm lượng vốn cố định
Hệ số hàm lượng VCĐ phản ánh số VCĐ cần có để đạt được một đồng doanh thu trong kỳ.
* Suất hao phí vốn cố định
Chỉ số này phản ánh số VCĐ cần thiết để tạo ra một đồng lợi nhuận.
* Hệ số hao mòn tài sản cố định
Chỉ số này thể hiện mức độ hào mòn của TSCĐ tại thời điểm đánh giá so với thời điểm đầu tư ban đầu.
Chỉ số hiệu quả vốn đầu tư - ICOR (Incremental Capital Output Ratio)
Hiệu quả vốn đầu tư (ICOR) là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh quan hệ so sánh giữa chỉ tiêu đầu vào là vốn đầu tư thực hiện (hoặc tích luỹ tài sản) và chỉ tiêu đầu ra là kết quả sản xuất đạt được. Như vậy ICOR có trị số càng thấp nghĩa là hiệu quả càng cao và ngược lại.
ICOR cần tính cho từng năm và chung cho nhiều năm trong một thời kỳ.
Chỉ số ICOR là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của vốn đầu tư, nó được xác định theo công thức chung như sau:
Trong đó:
DK mức thay đổi vốn sản xuất
(DK = Kt – Kt-1)
DY là mức thay đổi về kết quả sản xuất và DY = Yt – Yt-1, ở đây t chỉ năm nghiên cứu và t - 1 chỉ năm trước năm nghiên cứu.
Tuy nhiên chỉ số ICOR dùng để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư với sự tăng trưởng kinh tế, vì thế ICOR không dùng để đo lường hiệu quả sử dụng vốn của từng doanh nghiệp hay của từng chủ thể kinh tế riêng lẻ.
Trong thực tế việc xác định vốn có đến cuối mỗi năm là rất khó khăn (bởi phải kiểm kê đánh giá lại tài sản hàng năm) hoặc xác định số tăng và giảm trong năm rất khó đặc biệt là phần tài sản đưa vào sản xuất hoặc hư hỏng, cho nên người ta thay DK bằng chỉ tiêu vốn đầu tư phát triển được xem đó là số vốn tăng lên trong năm (chỉ tiêu vốn đầu tư phát triển trong năm có trong hệ thống số liệu thống kê hàng năm).
Phân tích Dupont
a. Phương trình Dupont
Phương pháp phân tích ROE dựa vào mối quan hệ với ROA để thiết lập phương trình phân tích, lần đầu tiên được công ty Dupont áp dụng nên thường được gọi là phương trình Dupont.
Phương pháp phân tích Dupont cho thấy tác động tương hỗ giữa các tỷ số tài chính cụ thể là tỷ số hoạt động và doanh lợi để xác định khả năng sinh lợi trên vốn đầu tư. Đây là mối quan hệ hàm số giữa các tỷ số: Hệ số quay vòng vốn, tỷ suất sinh lợi nhuận trên doanh thu và tỷ suất lợi nhuận trên vốn.
Mô hình 1.1: Mô hình phân tích Dupont
Bên trên của mô hình Dupont khai triển hệ số quay vòng vốn, qua đó chúng ta thấy được vòng quay toàn bộ vốn sẽ bị ảnh hưởng vởi các nhân tố nào. Trên cơ sở đó, nếu doanh nghiệp muốn tăng vòng quay vốn thì cần phải phân tích các nhân tố quan hệ để có biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Bên dưới mô hình Dupont khai triển tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu để thấy những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất này. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp muốn tham gia tăng tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu thì nhân tố chi phí của hàng tiêu thụ cần được quan tâm, cụ thể hơn có thể phân tích các chi phí cấu thành để có biện pháp hợp lý.
Phương trình Dupont cho chúng ta thấy được mối quan hệ và tác động của các nhân tố là các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng nguồn vốn; đồng thời cho phép phân tích lượng hóa những nhân tố ảnh hưởng đến suất sinh lời của vốn chủ sở hữu bằng các phương pháp loại trừ; từ đó đề ra các quyết sách phù hợp và hiệu quả trên cơ sở mức tác động khác nhau của từng nhân tố để tăng năng suất sinh lời.
b. Phương pháp Dupont mở rộng với tỷ số nợ
Trong quá trình sử dụng phương pháp Dupont, nếu được mở rộng và sử dụng cả tỷ số nợ cho thấy mối quan hệ giữa tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu với tỷ suất lợi nhuận trên vốn.
Công thức sau cho thấy rõ ảnh hưởng của tỷ số nợ trên lợi nhuận của chủ sở hữu:
Trong đó,
Công thức này cho thấy tỷ số nợ có thể được sử dụng để tăng tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, nâng cao tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bằng cách sử dụng tỷ số nợ sẽ làm cho tỷ số nợ tăng dần, các chủ nợ sẽ chống lại khuynh hướng này và do đó sẽ đặt giới hạn ho phương thức trên. Hơn nữa, tỷ số nợ cao, doanh nghiệp sẽ có nhiều rủi ro phá sản mà chủ nợ sẽ phải gánh chịu.
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp nhà nước
Các nhân tố chủ quan
Các yếu tố thuộc về DNNN có tác động trực tiếp tới tình hình tài chính của DNNN.
Thứ nhất, về quy mô, cơ cấu tổ chức của DNNN.
DNNN có quy mô càng lớn thì việc quản lý hoạt động của DNNN càng phức tạp. Do lượng vốn sử dụng nhiều nên cơ cấu tổ chức của DNNN càng chặt chẽ thì sản xuất càng hiệu quả. Khi quản lý sản xuất được quản lý quy củ thì sẽ tiết kiệm được chi phí và thu lợi nhuận cao. Mà công cụ chủ yếu để theo dõi quản lý hoạt động kinh doanh của DNNN là hệ thống kế toán tài chính. Công tác kế toán thực hiện tốt sẽ đưa ra các số liệu chính xác giúp cho lãnh đạo nắm được tình tình tài chính của doanh nghiệp, trên cơ sở đó đưa ra các quyết định đúng đắn.
Thứ hai, trình độ kỹ thuật sản xuất: đối với DNNN có trình độ sản xuất cao, ứng dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất, kinh doanh sẽ tiết kiệm được nhiều chi phí sản xuất, từ đó hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Nhưng ngược lại, những DNNN có trình độ kỹ thuật thấp, sử dụng máy móc lạc hậu sẽ làm giảm doanh thu, ảnh hưởng đến tài chính của doanh nghiệp.
Thứ ba, trình độ đội ngũ cán bộ lao động sản xuất:
- Trình độ tổ chức quản lý của lãnh đạo: vai trò của người lãnh đạo trong tổ chức sản xuất kinh doanh là rất quan trọng. Sự điều hành quản lý phải kết hợp được tối ưu các yếu tố sản xuất, giảm chi phí không cần thiết, đồng thời nắm bắt được cơ hội kinh doanh, đem lại sự phát triển cho DNNN.
- Trình độ tay nghề của người lao động: nếu công nhân sản xuất có trình độ tay nghề cao phù hợp với trình độ dây chuyền sản xuất thì việc sử dụng máy móc sẽ tốt hơn, khai thác được tối đa công suất thiết bị làm tăng năng suất lao động, tạo ra chất lượng sản phẩm cao. Điều này chắc chắn sẽ làm tình hình tài chính của doanh nghiệp ổn định.
Thứ tư, chiến lược phát triển, đầu tư của doanh nghiệp: bất cứ một DNNN nào khi kinh doanh đều đặt ra cho mình kế hoạch để phát triển thông qua các chiến lược. Để tình hình tài chính của DNNN được phát triển ổn định thì các chiến lược kinh doanh phải đúng hướng, phải cân nhắc thiệt hơn vì các chiến lược này có thể làm biến động lớn lượng vốn của DNNN.
Thứ năm, cơ chế quản lý tài sản lưu động trong DNNN.
TSLĐ là những tài sản ngắn hạn và thường xuyên luân chuyển trong quá trình kinh doanh. Dựa vào việc nghiên cứu chu kì vận động của tiền mặt, có thể chia tài sản lưu động thành tiền mặt, các chứng khoán thanh khoản cao, phải thu và dự trữ tồn kho...Việc quản lý TSLĐ có ảnh hưởng rất quan trọng đối với hiệu quả sử dụng vốn của DNNN.
- Quản lý dự trữ tồn kho:
Trong quá trình luân chuyển vốn lưu động phục vụ cho sản xuất kinh doanh thì việc tồn tại vất tư hàng hóa dự trữ tồn kho là những bước đệm cần thiết cho quá trình hoạt động bình thường của doanh nghiệp. Thông thường trong quản lý, vấn đề chủ yếu được đề cập là bộ phận dự trữ nguyên vật liệu phục vụ sản xuất kinh doanh đối với các doanh nghiệp sản xuất; còn đối với doanh nghiệp thương mại thì dự trữ nguyên vật liệu cũng là dự trữ hàng hóa để bán.
+ Có thể quản lý dự trữ theo phương pháp cổ điển hay mô hình đặt hàng hiệu quả nhất (EOQ). Theo mô hình này có nhiều loại chi phí liên quan đến dự trữ hàng hóa nhưng tựu chung lại có 2 loại sau: chi phí lưu kho và chi phí đặt hàng. Trong quá trình quản lý nguyên vật liệu, người ta tính toán sao cho chi phí quản lý là thấp nhất nhưng vẫn đảm bảo được hiệu quả sản xuất.
+ Quản lý theo phương pháp cung cấp đúng lúc hay dự trữ bằng không.
Các doanh nghiệp trong một số ngành có liên quan chặt chẽ với nhau hình thành nên những mối quan hệ, khi có một đơn đặt hàng nào đó sẽ tiến hành sử dụng những loại hàng hóa và sản phẩm dở dang của các đơn vị khác mà họ không phải dự trữ. Phương pháp này giảm mức thấp nhất chi phí cho dự trữ.
- Quản lý tiền mặt và các chứng khoán thanh khoản cao.
Tiền mặt là tiền tồn quỹ, tiền trên tài khoản thanh toán của doanh nghiệp ở ngân hàng. Tiền mặt là tài sản không sinh lãi. Vì vậy, cần phải quản lý sao cho tối thiểu hóa lượng tiền mặt phải giữ. Tuy nhiên việc giữ tiền mặt trong kinh doanh cũng là vấn đề cần thiết để đảm bảo giao dịch kinh doanh hàng ngày, để bù đắp cho ngân hàng về việc ngân hàng cung cấp những dịch vụ cho DNNN, để đáp ứng nhu cầu dự phòng trong trường hợp biến động. Tuy nhiên nếu số tiền mặt lớn sẽ gây khó khăn cho DNNN. V́ vậy để quản lý thì cần dự trữ các chứng khoán có khả năng thanh khoản cao để hưởng lãi suất. Khi cần thiết có thể chuyển thành tiền mặt một cách dễ dàng và ít tốn kém chi phí.
Như vậy cần phải quản lý tiền mặt có hiệu quả trên cơ sở kết hợp những lợi ích có được và những chi phí mình bỏ ra khi giữ tiền mặt.
-Quản lý các khoản phải thu.
Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng thương mại có thể làm cho doanh nghiệp đứng vững trên thị trường nhưng có thể đem đến những rủi ro cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cụ thể: Tín dụng thương mại làm cho doanh thu của doanh nghiệp tăng lên, làm giảm chi phí tồn kho của hàng hóa, làm tăng chi phí hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó, làm giảm thuế. Nếu khách hàng không trả tiền làm cho lợi nhuận bị giảm, nếu thời hạn cấp tín dụng càng dài thì rủi ro càng lớn.
Thứ sáu, cơ chế quản lý tài sản cố định và quỹ khấu hao tài sản cố định.
Để quản lý tốt tài sản cố định, thông thường chúng được phân thành các loại sau: tài sản cố định phục vụ cho mục đích kinh doanh, gồm có tài sản cố định vô hình và tài sản cố định hữu hình. Tài sản cố định dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp an ninh quốc phòng.
- Quản lý quỹ khấu hao.
Trong quá trình sử dụng TSCĐ bị hao mòn dần, đó là sự giảm dần về giá trị của tài sản. Do tài sản cố định bị hao mòn nên trong mỗi chu kì sản xuất người ta tính chuyển một lượng tương đương với phần hao mòn vào giá thành sản phẩm. Khi sản phẩm được tiêu thụ, bộ phận tiền này được trích lại thành một quỹ nhằm để tái sản xuất tài sản cố định. Công việc này gọi là khấu hao TSCĐ. Như vậy đối với nhà quản lý cần xem xét tính toán mức khấu hao sao cho phù hợp với thực trạng kinh doanh của doanh nghiệp. Để quản lý hiệu quả khấu hao tài sản cố định cần phải lựa chọn các cách tính khấu hao phù hợp và phải có phương pháp quản lý số khấu hao lũy kế của tài sản cố định.
- Quản lý cho thuê, thế chấp, nhượng bán thanh lý tài sản.
+ Cho thuê thế chấp tài sản: DNNN được quyền cho các tổ chức, cá nhân trong nước thuê hoạt động các tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của mình. Đối với tài sản cho thuê hoạt động, DNNN phải tính khấu hao theo chế độ quy định. DNNN được đem tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của mình để cầm cố, thế chấp vay vốn hoặc bảo lãnh tại các tổ chức tín dụng theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật.
+ Nhượng bán thanh lý tài sản.
Nhượng bán: DNNN được nhượng bán các tài sản không dùng nữa do lạc hậu về kĩ thuật, để thu hồi vốn cho mục đích kinh doanh có hiệu quả hơn Thanh lý: doanh nghiệp được quyền thanh lý những tài sản kém phẩm chất hư hỏng, không có khả năng phục hồi, tài sản lạc hậu kí thuật, không có nhu cầu sử dụng, hoặc sử dụng không có hiệu quả, không thể nhượng bán nguyên dạng được.
- Xử lý tổn thất tài sản.
Tài sản tổn thất do nguyên nhân chủ quan của tập thể cá nhân thì người gây tổn thất phải bồi thường theo quy định của pháp luật; mức độ bồi thường do doanh nghiệp quy định. Tài sản đã mua bảo hiểm nếu tổn thất thì các tổ chức bảo hiểm bồi thường theo hợp đồng bảo hiểm...
Các nhân tố khách quan
- Thị trường:
Thị trường là nhân tố quan trọng quyết định tới hoạt động kinh doanh của DNNN. Trong đó thị trường vốn quyết định tới việc huy động vốn của DNNN còn thị trường hàng hóa quyết định tới việc sử dụng vốn. Thị trường tiêu thụ sản phẩm có tác động lớn đến doanh thu và lợi nhuận của DNNN. Nếu các thị trường này phát triển ổn định sẽ là nhân tố tích cực thúc đẩy DNNN tái sản xuất mở rộng và tăng thị phần.
Do đó có thể nói yếu tố thị trường có ảnh hưởng lớn đến tình hình tài chính của DNNN.
- Yếu tố khách hàng:
Ngày nay, nhu cầu sử dụng sản phẩm của khách hàng ngày càng cao đòi hỏi nhà cung cấp phải tạo ra được những sản phẩm độc đáo, hấp dẫn người mua. Vì vậy DNNN cần phải làm sao tạo ra được những sản phẩm đó với giá thành hợp lý để có lợi nhuận cao. DNNN sẽ phải bỏ ra chi phí hợp lý để nghiên cứu thị trường tìm hiểu các mặt hàng đang được ưa chuộng, tìm hiểu mẫu mã, bao bì đóng gói...để từ đó có quyết định sản xuất cho hiệu quả. Nhu cầu đòi hỏi của khách hàng càng cao thì DNNN càng phải tích cực hơn trong công tác tổ chức thực hiện làm cho hiệu quả hoạt động tốt hơn cũng có nghĩa tình hình tài chính được cải thiện.
- Trạng thái nền kinh tế:
Trạng thái nền kinh tế có ảnh hưởng gián tiếp tới tình hình tài chính của DNNN. Khi nền kinh tế phát triển vững mạnh và ổn định sẽ tạo cho DNNN có nhiều cơ hội trong kinh doanh như: huy động vốn, đầu tư vào các dự án lớn, có cơ hội lựa chọn bạn hàng...
Khi nền kinh tế phát triển cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật thì hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN cũng được tăng theo. Bởi lẽ khi khoa học công nghệ phát triển mạnh thì nó sẽ đặt DNNN vào môi trường cạnh tranh gay gắt. Nếu như DNNN không thích ứng được môi trường này chắc chắn sẽ không tồn tại được. Vì vậy, các DNNN luôn chú trọng việc đầu tư vào công nghệ. Với những máy móc hiện đại không những tiết kiệm được sức lao động của con người mà còn tạo ra được khối lượng sản phẩm cao với giá thành thấp thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Do đó nó sẽ làm tăng doanh thu của DNNN, lợi nhuận của doanh nghiệp tăng lên càng khuyến khích DNNN tích cực sản xuất, tình hình tài chính của DNNN được cải thiện ngày càng tốt hơn. Ngựơc lại, nếu trạng thái nền kinh tế đang ở mức suy thoái thì việc doanh nghiệp muốn cải thiện tình hình tài chính là rất khó khăn.
- Về cơ chế chính sách kinh tế:
Vai trò điều tiết của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là điều không thể thiếu. Điều này được quy định trong các Nghị quyết TW Đảng. Các cơ chế, chính sách này có tác động không nhỏ tới tình hình tài chính của doanh nghiệp. Ví dụ như từ cơ chế giao vốn, đánh giá lại tài sản, sự thay đổi các chính sách thuế (thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu...), chính sách cho vay, bảo hộ và khuyến khích nhập khẩu công nghệ...đều ảnh hưởng tới quá trình sản xuất kinh doanh của DNNN từ đó ảnh hưởng tới tình hình tài chính.
- Nhà cung cấp:
Muốn sản xuất kinh doanh thì DNNN phải có các yếu tố đầu vào như: nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị, công nghệ ...thì DNNN phải mua ở các DN khác. Việc thanh toán các khoản này sẽ tác động trực tiếp đên tài chính của DNNN. Ví dụ như nhà cung cấp đòi hỏi DNNN phải thanh toán tiền ngay khi giao hàng thì sẽ dẫn đến lương tiền mặt hoặc tiền gửi ngân hàng của DNNN giảm xuống, DNNN sẽ khó khăn trong việc huy động vốn. Hoặc DNNN phải vận chuyển nguyên vật liệu về kho sẽ làm tăng chi phí sản xuất làm giảm lợi nhuận của DNNN...
Các DNNN trong quá trình sản xuất kinh doanh thường đặt ra nhiều mục tiêu và tuỳ thuộc vaò giai đoạn hay điều kiện cụ thể mà có những mục tiêu được ưu tiên thực hiện, nhưng tất cả đều nhằm mục đích cuối cùng là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu, đạt được mục tiêu đó doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển được.
Một DNNN muốn thực hiện tốt mục tiêu của mình thì phải hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Trong khi đó yếu tố tác động có tính quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh chính là hiệu quả sử dụng vốn của DNNN. Do vậy doanh nghiệp cần phải có những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đặc biệt trong điều kiện hiện nay.
Trước đây trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, DNNN coi nguồn vốn cấp phát từ ngân sách nhà nước đồng nghĩa với “cho không”, nên khi sử dụng nhiều doanh nghiệp không cần quan tâm đến hiệu quả, kinh doanh thua lỗ đã có Nhà nước bù đắp. Điều đó gây ra tình trạng vô chủ trong quản trị và sử dụng vốn dẫn đến lãng phí vốn và hiệu quả kinh doanh thấp. Theo số liệu thống kê cho thấy việc sử dụng tài sản cố định chỉ đạt 50%- 60% công suất thiết kế, phổ biến chỉ hoạt động 1 ca trên ngày, vì vậy hệ số sinh lời của đồng vốn thấp.
Khi nước ta chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp buộc phải chuyển mình theo cơ chế mới, mới có thể tồn tại và phát triển. Cạnh tranh giữa các DNNN với các thành phần kinh tế khác trở lên gay gắt. Bởi vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn có vị trí quan trọng hàng dầu của doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo an toàn tài chính cho DNNN. Hoạt động trong cơ chế thị trường đòi hỏi mỗi DNNN phải luôn đề cao tính an toàn, đặc biệt là an toàn tài chính. Đây là vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của DNNN. Việc sử dụng vốn có hiệu quả giúp DNNN nâng cao khả năng huy động vốn, khả năng thanh toán của DNNN được bảo đảm….
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp DNNN nâng cao sức cạnh tranh. Để đáp ứng yêu cầu cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm… DNNN phải có vốn, trong khi đó vốn của doanh nghiệp chỉ có hạn, vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là cần thiết.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp DNNN đạt được mục tiêu tăng giá trị tài sản chủ sở hữu và các mục tiêu khác của doanh nghiệp như nâng cao uy tín của DNNN trên thị trường , nâng cao đời sống của người lao động. Vì khi hoạt động kinh doanh có hiệu quả thì DNNN có thể mở rộng quy mô sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và mức sống của người lao động cũng ngày càng được cải thiện. Đồng thời nó cũng làm tăng các khoản đóng góp cho ngân sách Nhà nước.
Như vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của DNNN không những đem lại hiệu quả thiết thực cho DNNN và người lao động mà nó còn ảnh hưởng đến sự phát triển của cả nền kinh tế và toàn xã hội. Do đó, các DNNN phải luôn tìm ra các biện pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của DNNN.
2.4. Phương thức nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp nhà nước
Hiệu quả sử dụng vốn của DNNN được thể hiện trực tiếp thông qua lợi nhuận thu được bởi đây chính là chỉ tiêu phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất, kinh doanh. Do đó, để nâng cao hiệu quả hoạt động sử dụng vốn trong các DNNN thì phải nâng cao khả năng thu lợi nhuận của DN, đồng thời phải tối ưu hóa vốn đầu tư. Mỗi DNNN tùy vào điều kiện ngành nghề, hình thức hoạt động, có thể tìm ra những biện pháp cụ thể, phù hợp để nâng cao hiệu quả thu lợi nhuận cho DN mình, tuy nhiên ở bình diện chung, các DNNN cần thực hiện các phương thức cơ bản sau để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn:
Một là, xác định nhu cầu vốn kinh doanh chính xác, đầy đủ và kịp thời. Nhu cầu vốn kinh doanh phải được xác định dựa trên quy mô kinh doanh, kế hoạch sản xuất làm cơ sở đảm bảo đưa ra kế hoạch huy động và sử dụng vốn phù hợp tránh tình trạng thiếu vốn gây ngưng trệ sản xuất hoặc thừa, thiếu vốn gây ra ứ đọng vốn làm giảm khả năng sinh lời của đồng vốn.
Hai là, lựa chọn cơ cấu và hình thức huy động vốn kinh doanh theo hướng tích cực: khai thác triệt để nguồn vốn bên trong để tối thiểu hóa chi phí sử dụng vốn, giảm thiểu rủi ro thanh toán và đảm bảo khả năng tự chủ tài chính của doanh nghiệp, đồng thời tăng cường khai thác, huy động vốn từ nhiều nguồn bên ngoài để nâng cao khả năng sinh lời của đồng vốn.
Ba là, thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát để có thể nắm bắt được tình hình biến động về giá trị cũng như cơ cấu của tài sản nhằm hạn chế sự mất mát, thất thoát tài sản trong quá trình sản xuất kinh doanh, đảm bảo vốn kinh doanh được bảo toàn hiện vật.
Bốn là, đổi mới cơ chế quản lý và sử dụng tài sản trong DNNN theo hướng quản trị doanh nghiệp hiện đại làm cơ sở cho việc thực hiện có hiệu quả công tác bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh.
Năm là, áp dụng các biện pháp phòng chống rủi ro bằng cách chủ động mua bảo hiểm cho tài sản và trích lập các quỹ dự phòng để bảo đảm nguồn tài chính bù đắp những rủi ro có thể xảy ra và bảo toàn được vốn kinh doanh cho DNNN.
Qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước về quản lý và đầu tư vốn nhà nước, có thể rút ra một số kết luận và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam:
Một là, việc quản lý giám sát phần vốn nhà nước đối với DNNN cần xem xét trên giác độ chủ sở hữu, tách bạch giữa chức năng quản lý nhà nước và chức năng chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại DNNN;
Hai là, mức độ quản lý, giám sát của Nhà nước phụ thuộc vào mức độ đầu tư vốn nhà nước nhiều hay ít, tính chất hoạt động của DNNN là công ích hay kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận;
Ba là, Quốc hội, Chính phủ và các bộ, cơ quan ngang bộ... là các chủ thể thực hiện quyền của chủ sở hữu nhà nước ở các mức độ khác nhau và có sự phân cấp. Cơ chế giám sát chủ yếu thông qua thực hiện chế độ báo cáo và minh bạch hoá thông tin;
Bốn là, để đảm bảo việc giám sát có hiệu quả phần vốn nhà nước tại DNNN và nâng cao quyền tự chủ của DNNN, Chính phủ cần xây dựng một khung khổ pháp lý với các quy định rõ ràng, minh bạch, làm cơ sở cho quản lý và giám sát phần vốn nhà nước tại các DNNN được hiệu quả, xây dựng các chỉ tiêu để quản lý kết quả hoạt động kinh doanh của DNNN và phù hợp với nhiều loại hình DNNN khác nhau;
Năm là, việc thành lập một cơ quan giám sát và quản lý phần vốn nhà nước tại DNNN là cần thiết, nhằm giúp cho chủ sở hữu nhà nước giám sát tình hình hoạt động của DNNN liên quan đến phần vốn của Nhà nước đầu tư vào DNNN và tách bạch với chức năng quản lý của Nhà nước;
Sáu là, thực hiện cơ chế giám sát, đánh giá hoạt động của người đại diện phần vốn nhà nước tại DNNN để đảm bảo phát huy được năng lực, hiệu quả của người đại diện, bảo toàn và phát triển phần vốn nhà nước trong các DNNN
2.5. Giải pháp chung về hoàn thiện cơ chế, chính sách trong quản lý vốn tại các doanh nghiệp nhà nước
. Phân biệt rõ vai trò chủ sở hữu vốn trong doanh nghiệp nhà nước và chủ thể quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước
Thực trạng phổ biến kéo dài trong nhiều năm qua là có quá nhiều cơ quan nhà nước luôn thực hiện song hành 02 vai: Vừa là chủ thể quản lý nhà nước vừa là chủ thể đại diện sở hữu DNNN hoặc đại diện phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp. Cho nên, Chính phủ cần kịp thời thể chế hóa các quan điểm, định hướng của Đảng và Quốc hội về đổi mới mô hình tổ chức thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu Nhà nước đối với DNNN.
Cho đến nay, nhiều chủ trương lớn của Đảng chưa được thể chế hóa như: Chủ trương “Thu hẹp và tiến tới không còn chức năng đại diện chủ sở hữu của các bộ, UBND tỉnh, thành phố đối với DNNN” tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X. “Tách bạch vai trò của Nhà nước với tư cách là bộ máy công quyền quản lý toàn bộ nền kinh tế - xã hội với vai trò chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước” tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X; “Cần xác định rõ cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm quản lý toàn diện doanh nghiệp nhà nước, bao gồm cả vốn, tài sản và nhân sự, cả doanh nghiệp 100% vốn nhà nước và doanh nghiệp có phần vốn nhà nước; xác định rõ quyền và nghĩa vụ của tổ chức và cá nhân quản lý vốn nhà nước trong kinh doanh” tại Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương khóa X; “Nghiên cứu hình thành các tổ chức quản lý đầu tư, kinh doanh có hiệu quả các nguồn vốn, tài sản của Nhà nước, khắc phục tình trạng bộ máy quản lý hành chính” tại Đại hội Đảng toàn quốc khóa XI; “Sớm xác định cơ quan Nhà nước đóng vai trò chủ sở hữu doanh nghiệp, khắc phục tình trạng không rõ ràng hiện nay”. Theo thẩm quyền, Quốc hội đã yêu cầu: “Thực hiện triệt để hơn việc tách chức năng thực hiện các quyền chủ sở hữu với chức năng quản lý hành chính nhà nước, tách bạch rõ ràng thực hiện quyền chủ sở hữu và quyền chủ động kinh doanh của doanh nghiệp; tôn trọng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh của doanh nghiệp. Hoàn thiện cơ chế phân cấp việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước theo nguyên tắc có một đầu mối chịu trách nhiệm chính, thực hiện nhiệm vụ theo dõi, tổng hợp tình hình quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước và phân tích, đánh giá hiệu quản sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước, kể cả các tập đoàn, tổng công ty đặc biệt”.
Quyền sở hữu gồm có ba quyền chính là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Do đó, nếu Nhà nước là người sở hữu doanh nghiệp nhà nước thì Nhà nước cũng có quyền sản xuất, kinh doanh (thực chất là quyền sử dụng). Tuy nhiên, để bảo đảm hiệu quả cao nhất trong sản xuất, kinh doanh, trong các doanh nghiệp nhà nước cần có sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền sản xuất kinh doanh.
Thứ nhất, gắn liền với việc mở rộng quyền tự chủ và nâng cao tính trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, cần đổi mới một cách cơ bản cơ chế thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu của Nhà nước theo hướng thu hẹp và tiến tới không còn chức năng đại diện chủ sở hữu của các bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với doanh nghiệp nhà nước.
Thứ hai, cần quan tâm đến vấn đề bổ nhiệm thành viên hội đồng quản trị và ban giám đốc doanh nghiệp nhà nước. Các thành viên hội đồng quản trị là người đại diện chủ sở hữu nhà nước trong các doanh nghiệp nhà nước nên vẫn có xu hướng hoạt động không vì lợi ích của chủ sở hữu thực sự (ở đây là toàn dân). Vì vậy, thành viên hội đồng quản trị trong doanh nghiệp nhà nước (trước hết là các doanh nghiệp lớn có tính chất quyết định đến nền kinh tế) phải do các tiểu ban thuộc Quốc hội bổ nhiệm và phải báo cáo trước các tiểu ban này. Hiện nay, đội ngũ cán bộ quản lý điều hành doanh nghiệp nhà nước được coi là một dạng viên chức nhà nước, được các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền lựa chọn và bổ nhiệm. Do bổ nhiệm các công chức đang làm việc, có nhiều trường hợp chưa thật sự đúng người, đúng việc nên có những giám đốc không đủ năng lực “đọc báo cáo tài chính”. Để lựa chọn được những giám đốc có đủ năng lực và bản lĩnh thực hiện đầy đủ quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp thì cần mở rộng chế độ thi tuyển các chức danh chủ chốt của doanh nghiệp và chế độ hợp đồng quản lý điều hành doanh nghiệp nhà nước. Những người được lựa chọn không nhất thiết phải là viên chức nhà nước nằm trong diện quy hoạch cán bộ mà mở rộng ra các đối tượng ngoài biên chế. Nguyên tắc cần quán triệt là giao tài sản cho người nào có khả năng quản lý có hiệu quả tài sản ấy. Việc tuyển chọn chắc chắn phải theo nguyên tắc công khai, thi tuyển từ các nguồn khác nhau của xã hội.
Thứ ba, phải thiết lập quan hệ pháp lý, kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể sử dụng sở hữu nhà nước thông qua các thể chế như luật, hợp đồng, quy chế. Nội dung thể chế phải thể hiện rõ ràng quyền lợi, trách nhiệm, lợi ích của cả hai bên. Về phía Nhà nước, những quyền hạn, trách nhiệm và lợi ích cũng phải quy định rõ ràng, cụ thể, bảo đảm cho sự sở hữu trên thực tế của Nhà nước có quyền kiểm soát thực sự việc sử dụng vốn của mình. Đây là cơ sở pháp lý để Nhà nước vừa bảo vệ tài sản của mình, vừa thu được lợi ích tương xứng từ việc sử dụng tài sản đó.
Thứ tư, trong hợp đồng kinh tế giữa đại diện chủ sở hữu và ban giám đốc quản lý doanh nghiệp nhà nước cần xác định rõ trách nhiệm và quyền lợi của đại diện chủ sở hữu và đội ngũ cán bộ quản lý, điều hành với kết quả và hiệu quả của doanh nghiệp. Hiện nay, thành viên hội đồng quản trị và ban điều hành doanh nghiệp nhà nước vẫn được coi là những viên chức nhà nước. Trách nhiệm và quyền lợi của họ trước rủi ro trong sản xuất kinh doanh và mức lợi nhuận của doanh nghiệp chưa được quy định rõ ràng. Điều đó vừa không tạo động lực cho nhà quản lý hoạt động để tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp, vừa dễ dẫn tới tình trạng những giám đốc giỏi bỏ ra bên ngoài khu vực nhà nước để làm việc hoặc tìm những cách làm ăn phi pháp khác. Đặc biệt, khi ban giám đốc lại móc nối với hội đồng quan trị cũng là người được bổ nhiệm và không phải là chủ sở hữu thực sự.
Thứ năm, để bảo đảm quyền sở hữu của Nhà nước trên thực tế, tránh tình trạng chủ sở hữu không kiểm soát được người sử dụng tài sản của mình cũng cần giám sát hoạt động của ban giám đốc, giám sát hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Ngoài việc thực hiện cơ chế tự giám sát của nội bộ doanh nghiệp, cần chú trọng tăng cường chức năng kiểm tra, kiểm soát của chủ sở hữu nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Quy định công khai, minh bạch như một trong những nguyên tắc tuyệt đối trong quản lý doanh nghiệp nhà nước. Đề cao vai trò của SCIC trong trách nhiệm giám sát việc quản lý và sử dụng tài sản thuộc sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp. Thực thi nghiêm ngặt chế độ trách nhiệm cá nhân với mỗi thành viên hội đồng quản trị/hội đồng thành viên và tổng giám đốc, giám đốc điều hành các doanh nghiệp nhà nước nếu để xảy ra sai phạm trong doanh nghiệp. Vấn đề không phải chỉ là hô hào các nhà quản lý rèn luyện đạo đức phẩm chất, nâng cao tinh thần trách nhiệm mà phải có ràng buộc trách nhiệm cá nhân chặt chẽ trong việc quản lý và sử dụng tài sản nhà nước.
10.2. Hoàn thiện pháp luật về thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước
Quốc hội với tư các là chủ thể đại diện cho sở hữu toàn dân với phần vốn đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước sẽ uỷ quyền cho Thủ tướng Chính phủ trong việc thành lập Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước - SCIC[1], đồng thời giám sát quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thủ tướng. Để thực hiện được yêu cầu này, Quốc hội cần tiếp tục hoàn thiện Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, ban hành Luật Tổ chức chính quyền địa phương, trong đó pháp luật cần quy định rõ trách nhiệm báo cáo của Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh về việc quản lý hệ thống doanh nghiệp nhà nước.
Xây dựng, bổ sung quy định sự tham gia của Quốc hội trong việc thực hiện quyền chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan giám sát nhà nước cao nhất, vì vậy Quốc hội phải thay mặt nhân dân giám sát hoạt động của doanh nghiệp nhà nước nói chung, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nói riêng, như: quy định khung chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước, giới hạn tỷ lệ vốn nhà nước đầu tư vào kinh doanh; điều chỉnh phạm vi thành lập mới doanh nghiệp nhà nước (đối với doanh nghiệp nhà nước 100% vốn nhà nước)...
Quy định cụ thể cơ chế giám sát, đánh giá thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước của các cơ quan có thẩm quyền và giám sát, đánh giá hoạt động của doanh nghiệp nhà nước cũng như hoạt động của Hội đồng quản trị tại các doanh nghiệp nhà nước. Qua kinh nghiệm điểu chính pháp luật của một số nước, có thể nhận thấy những hạn chế của cơ chế giám sát, đánh giá này ở nhiều quốc gia là: thứ nhất, chưa có một cơ quan độc lập thực hiện nhiệm vụ do cơ quan đại diện cao nhất của chủ sở hữu - Quốc hội trực tiếp giao phó, như ở NewZealand, Cơ quan tư vấn giám sát doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính; ở Hàn Quốc, Hội đồng quản lý đánh giá doanh nghiệp nhà nước do Tổng thống thành lập,... Thứ hai, chủ yếu mới giám sát, đánh giá hoạt động của Hội đồng quản trị và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, chưa chú trọng giám sát, đánh giá hoạt động của các chủ thể tham gia thực hiện quyền chủ sở hữu. Phần Lan đã xây dựng được mô hình cơ quan giám sát, đánh giá đáp ứng được cả hai điều này thông qua hoạt động của Văn phòng kiểm toán nhà nước. Văn phòng này thực hiện kiểm toán và báo cáo với Quốc hội về thực hiện quyền chủ sở hữ nhà nước của các chủ thể cũng như kết quả hoạt động của Hội đồng quản trị nói riêng, doanh nghiệp nhà nước nói chung [38, tr. 127 - 128].
. Nhà nước tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật về giám sát hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp nhà nước
Thứ nhất, Nhà nước quy định rõ hơn điều kiện chuẩn hóa năng lực, công cụ và bộ máy thực hiện chức năng giám sát của chủ sở hữu nhà nước.
- Nhà nước quy định cách thức thực hiện giám sát, đánh giá của chủ sở hữu nhà nước chủ yếu căn cứ vào các báo cáo của DNNN mang tính thống kê hơn là báo cáo tình hình thực hiện mục tiêu của chủ sở hữu, trong khi cơ chế xác định tính xác thực của các báo cáo này còn bị bỏ ngỏ.
- Việc giám sát, đánh giá của chủ sở hữu chủ yếu căn cứ vào kết quả thực hiện so với kế hoạch do các DNNN tự xây dựng và đăng ký nên chưa phản ánh rõ được yêu cầu và đòi hỏi của chủ sở hữu nhà nước đối với các DNNN, nhất là đối với các tập đoàn kinh tế và tổng công ty quy mô lớn và quan trọng. Hơn nữa, các chỉ tiêu giám sát, đánh giá chủ yếu thiên về các chỉ tiêu tài chính mà chưa quan tâm đúng mức đến đánh giá một số vấn đề quan trọng khác, như: Tình hình chấp hành quyết định của chủ sở hữu Nhà nước, triển khai các dự án được phê duyệt, công tác bổ nhiệm cán bộ, cử người đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các doanh nghiệp thành viên...
- Hiện nay việc thực thi trách nhiệm xây dựng, hình thành và quản lý hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin về DNNN nói chung, tập đoàn kinh tế nói riêng để phục vụ công tác giám sát, đánh giá còn hạn chế (thông tin thiếu và chưa cập nhật, thiếu sự phối hợp và chia sẻ thông tin giữa các cơ quan gây lãng phí).
- Cơ chế giám sát hiện nay mới tập trung vào việc giám sát, đánh giá các doanh nghiệp mà chưa chú trọng đến giám sát quá trình thực thi chức năng chủ sở hữu nhà nước.
- Do chưa có đủ căn cứ, tiêu chí để giám sát, đánh giá những người giữ chức danh đại diện trực tiếp chủ sở hữu nhà nước tại DNNN (gồm các thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, kiểm soát viên, người đại diện vốn,...) nên khó có thể đánh giá việc hoàn thành hay chưa hoàn thành nhiệm vụ của từng thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, kiểm soát viên, người đại diện vốn để có những điều chỉnh kịp thời về công tác nhân sự.
Thứ hai, tăng cường công tác giám sát tối cao của Quốc hội đối với hiệu quả sử dụng vốn tại DNNN.
- Nâng cao chất lượng giám sát, đánh giá hoạt động của Chính phủ, các bộ, chính quyền địa phương trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với sử dụng vốn tại DNNN.
Theo Hiến pháp, tài sản do nhà nước đầu tư vào các DNNN là thuộc sở hữu toàn dân. Theo Luật Tổ chức Quốc hội và Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, được coi là đại diện cho sở hữu toàn dân. Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Trong đó, hoạt động “thống nhất tổ chức thực hiện quyền, nghĩa vụ chủ sở hữu công ty nhà nước” của Chính phủ cũng thuộc phạm vi giám sát tối cao của Quốc hội.
Vì vậy, cần tăng cường quyền lực và trách nhiệm của Quốc hội trong giám sát thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN và phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp. Một số quyền và nhiệm vụ của Quốc hội cần được tăng cường để giám sát việc thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước bao gồm: giám sát tối cao thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN; đánh giá tình hình, kết quả hoạt động của khu vực DNNN; đánh giá kết quả Chính phủ tổ chức thực hiện quyền, nghĩa vụ chủ sở hữu đối với DNNN.
Những quyền và nhiệm vụ này cần được xem xét để bổ sung vào Luật Tổ chức Quốc hội nhằm bảo đảm cơ sở pháp lý cho việc tăng cường giám sát thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước; bảo đảm tính thống nhất đại diện chủ sở hữu nhà nước, trong đó Quốc hội được coi là đại diện cho sở hữu toàn dân.
Mặc dù Quy chế giám sát doanh nghiệp nhà nước đã được ban hành theo Quyết định số 271/QĐ-TTg ngày 31/12/2003 của Thủ tướng Chính phủ có quy định doanh nghiệp tự giám sát, giám sát của đại diện chủ sở hữu và cơ quan quản lý nhà nước. Song, trên thực tế hiện nay cơ chế giám sát chưa thực sự đủ sức phát hiện và ngăn chặn kịp thời có hiệu quả những doanh nghiệp nhà nước làm sai những quy định của Nhà nước, sản xuất kinh doanh thua lỗ, lãng phí, thất thoát rất lớn tiền của Nhà nước. Vụ việc xảy ra ở Tập đoàn Vinashine, Tổng công ty Hàng hải Việt Nam – Vinalines là những ví dụ điển hình cho thấy sự yếu kém trong việc giám sát hoạt động của doanh nghiệp nhà nước thời gian qua.
Từ thực tiễn đó cho thấy, nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế giám sát chặt chẽ, kiểm toán độc lập, trung thực, tin cậy và thực hiện trách nhiệm giải trình của những doanh nghiệp nhà nước sử dụng vốn của Nhà nước trước Quốc hội.
- Nâng cao chất lượng giám sát, đánh giá hoạt động của Hội đồng quản trị trong thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với sử dụng vốn tại DNNN.
- Tăng cường tính minh bạch trong quản lý, sử dụng vốn tại DNNN. Trong thực hiện Đề án tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khoá IX, yêu cầu các cấp đại diện chủ sở hữu nhà nước áp dụng nguyên tắc công khai, minh bạch - một nguyên tắc quản trị doanh nghiệp hiện đại áp dụng trong cả quản trị doanh nghiệp và quản trị nhà nước - để thực hiện tái cấu trúc các doanh nghiệp nhà nước, nhất là các Tập đoàn kinh tế nhà nước, Tổng công ty để cải thiện quản trị doanh nghiệp phù hợp thông lệ kinh tế thị trường, chống tiêu cực, thất thoát, lợi ích nhóm. Trong đó: Quốc hội yêu cầu các cấp đại diện chủ sở hữu nhà nước áp dụng nguyên tắc minh bạch, công khai trong thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu. Trong đó: Quy định rõ ràng, minh bạch về các đối tượng có liên quan (tổ chức, cá nhân) thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước, gồm: danh mục cơ quan và chức danh, quyền hạn, nhiệm vụ, nghĩa vụ, trách nhiệm, cơ chế đánh giá và cơ chế giải trình của các đối tượng này (gồm cả tổ chức, cá nhân).
- Xây dựng cơ chế đánh giá về việc thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân đại diện chủ sở hữu nhà nước.
+ Quốc hội ban hành quy định về chế độ báo cáo và công bố thông tin về doanh nghiệp nhà nước, bao gồm cả các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước.
+ Chính phủ xây dựng và vận hành trang thông tin điện tử cung cấp thông tin cập nhật về DNNN, hoạt động đầu tư vốn nhà nước, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, công khai và xác thực của thông tin.
+ Tăng cường cơ chế giám sát kết hợp với kiểm tra, đánh giá thay thế dần cho phương thức thanh tra, kiểm tra, can thiệp trực tiếp, hành chính kiểu truyền thống, ít tác dụng, ẩn chứa những rủi ro đạo đức (lợi ích nhóm, cá nhân).
- Đổi mới nội dung, phương thức giám sát của Quốc hội đối với quản lý, sử dụng vốn tại DNNN.
+ Quốc hội đẩy mạnh việc tiến hành các hoạt động giám sát, đánh giá, nhìn nhận một cách nghiêm túc, khách quan cách thức quản lý, sử dụng vốn tại DNNN, để có sự điều chỉnh kịp thời về chính sách và pháp luật liên quan đến quản lý doanh nghiệp nhà nước.
+ Quốc hội cần tăng cường giám sát quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh của DNNN. Đặc biệt là giám sát quá trình phát triển Tập đoàn kinh tế nhà nước nhờ chính sách bảo hộ của nhà nước và bằng vốn vay, vốn huy động. Hiện nay, Chính phủ đã có chủ trương bảo hộ cho một số ngành công nghiệp trong nước phát triển, trong đó có một số tập đoàn nhà nước được hưởng chính sách này. Đây là chủ trương đúng và phù hợp với thông lệ quốc tế, tuy nhiên, trên thực tế đã có tình trạng một vài Tập đoàn kinh tế nhà nước có tham vọng trở thành tập đoàn đa ngành nhưng không phải bằng con đường cổ phần hoá và niêm yết trên thị trường chứng khoán mà bằng vốn vay, vốn huy động như thành lập nhiều doanh nghiệp, cấp vốn cho nhiều doanh nghiệp để thực hiện các dự án lớn nhưng nguồn vốn đầu tư chủ yếu hình thành từ vốn đi vay, hầu như không có vốn tự có. Cách làm và con đường phát triển này có nhiều hạn chế và dễ dấn đến kinh doanh không đồng bộ, hiệu quả kinh doanh thấp và không ít trường hợp kinh doanh đã bị đình trệ, bị thua lỗ, mất vốn, mất khả năng thanh toán.
+ Quốc hội tiếp tục nâng cao nhận thức và cải tiến cách thức tiến hành giám sát để không ngừng nâng cao chất lượng, bảm đảm cho pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh trong việc chấp hành chính sách và pháp luật về sử dụng, huy động vốn, tài sản của nhà nước tại các DNNN.
+ Khắc phục tình trạng giám sát chỉ nặng về chiều rộng mà thiếu chiều sâu; tăng cường giám sát theo chuyên đề, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, trong đó chú ý đến việc sử dụng ngân sách nhà nước, giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, các Bộ, chính quyền địa phương (Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp) trong công tác quản lý hoạt động cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Cần quy định chặt chẽ cơ chế bào cáo hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước tới Bộ quản lý chuyên ngành và cơ quan chuyên môn của Quốc hội: Uỷ ban Kinh tế, Uỷ ban Tài chính – Ngân sách, Kiểm toán nhà nước.
+ Tiếp tục đổi mới hoạt động chất vấn theo hướng đi sâu giải quyết từng vấn đề được chất vấn. Trong điều kiện Quốc hội nước ta chỉ tổ chức họp toàn thể 2 lần/năm, cần tăng cường các phiên giải trình tại Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội về những vấn đề liên quan đến sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các tập đoàn kinh tế nhà nước.
+ Tăng cường hoạt động điều hoà, phối hợp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội đối với hoạt động của các cơ quan của Quốc hội để khắc phục tình trạng chồng chéo về nội dung, đối tượng giám sát. Đảm bảo thông tin từ hoạt động của các đoàn giám sát, các báo cáo giám sát của các cơ quan của Quốc hội, các đoàn Đại biểu quốc hội cần được lưu hành và chia sẻ rộng rãi trong các cơ quan của Quốc hội, các Đoàn Đại biểu Quốc hội.
+ Cần đổi mới hơn nữa và nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội như đổi mới cách thức tiến hành giám sát, cơ chế huy động chuyên gia để nâng cao chất lượng kết quả giám sát. Sau giám sát cần có sự theo dõi sát sao việc thực hiện các kiến nghị giám sát, trường hợp cần thiết cần tiếp tục giám sát để nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện kết luận giám sát.
+ Tăng cường sự tham gia của cộng đồng (người dân, chuyên gia, nhà khoa học, nhà đầu tư vốn) vào quá trình giám sát ngay từ giai đoạn xây dựng chương trình giám sát: dự thảo chương trình giám sát của Quốc hội cần được công khai trên các trang thông tin điện tử hoặc các phương tiện truyền thông khác, trước khi Quốc hội thông qua nhằm phát huy dân chủ thực sự. Công bố công khai các kết luận giám sát (trừ những nội dung liên quan đến bí mật Nhà nước) để người dân được biết và phối hợp cùng Quốc hội giám sát việc chấp hành kết luận và kiến nghị giám sát.
- Xây dựng bộ tiêu chí để giám sát hiệu quả sử dụng vốn tại DNNN của Quốc hội.
Ban hành bộ tiêu chí giám sát, quản lý vốn, tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước nước trong hoạt động sản xuất kinh doanh theo hướng phù hớp với thông lệ quốc tế, vừa đảm bảo tính công khai, minh bạch, tập trung vào các yếu tố về sản phầm chủ lực, hiệu quả sử dụng vốn, lao động, tiền lương, tỷ lệ đóng góp vào ngân sách nhà nước,… Hàng năm, kết quả sản xuất kinh doanh của các DNNN phải được Kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán và công bố kết quả kiểm toán. Đây là kênh thông tin chính thống, giúp Quốc hội có căn cứ để giám sát hiệu quả.
Chỉ số đánh giá hoạt động chính hoặc Chỉ số hiệu quả trọng yếu – KPI (Key Performance Indicator) [41, tr. 145] là một công cụ quản lý, được sử dụng để đo lường, phân tích khả năng đạt được mục tiêu của các doanh DNNN, trọng tâm là các Tập đoàn kinh tế nhà nước. Quốc hội cần thiết lập hệ thống các tiêu chí để theo dõi, đo lượng được mức độ thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu của các Tập đoàn kinh tế nhà nước. Chỉ số KPI sẽ giúp quá trình giám sát và theo dõi thực thi các kết quả kinh doah của các tập đoàn kinh tế nhà nước.
Hai yêu cầu quan trọng đối với việc xác định và thiết lập KPI là phản ánh mục tiêu của Tập đoàn kinh tế nhà nước và lượng hoá được. Các chỉ số KPI sẽ xoay quanh lợi nhuận và các chỉ số tài chính và việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị và xã hội. Lợi nhuận trước thuế và vốn/tài sản cổ đông, tỷ lệ lợi nhuận trên đồng vốn, tốc độ tăng năng suất lao động, tăng xuất khẩu, tỷ lệ giảm tiêu hao năng lượng và nguyên vật liệu, các sang chế, phát minh, bảo vệ môi trường … là những chỉ số chính. Chỉ số KPI cho giám sát của Quốc hội chủ yếu là các chỉ số liên quan đến hiệu quả tài chính, chất lượng và môi trường và đặc biệt là nguồn vốn nhà nước trong các doanh nghiệp nhà nước.
- Xây dựng và hoàn thiện các thiết chế độc lập trong giám sát hiệu quả sử dụng vốn tại DNNN của Quốc hội.
Tiếp tục hoàn thiện thiết chế Kiểm toán nhà nước nhằm phát huy vai trò kiểm toán nhà nước trong hoạt động giám sát tài chính quốc gia, đặc biệt là hiệu quả sử dụng vốn tại DNNN. Hiện nay ở nước ta, Kiểm toán nhà nước là thiết chế duy nhất để Quốc hội giám sát độc lập, trực tiếp đối với DNNN. Do đó, cần tiếp tục hoàn thiện về tổ chức, hoạt động, nguồn nhân lực và cơ sở pháp lý để Kiểm toán nhà nước tiếp tục phát huy vai trò của mình, trong đó đặc biệt chú trọng đến việc hoàn thiện pháp luật về kiểm toán nhà nước. Theo đó, Quốc hội tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi Luật Kiểm toán nhà nước 2005 để nâng cao chất lượng kiểm toán nhà nước, đặc biệt đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại DNNN ở nước ta hiện nay. Theo đó, cần cụ thể hóa quy định pháp luật về hoạt động kiểm toán nhà nước đối với quá trình hoạt động đầu tư vốn nhà nước vào sản xuất, kinh doanh của DNNN. Ngoài ra, đối với tài sản là giá trị quyền sử dụng đất phải được định giá căn cứ theo giá của thị trường.
Thực tiễn cho thấy, ngoài thiết chế Kiểm toán nhà nước, việc giám sát của Quốc hội đối với doanh nghiệp nhà nước chủ yếu thực hiện gián tiếp thông qua giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ, các Bộ và chính quyền địa phương – với vai trò là chủ thể quản lý nhà nước đối với các DNNN. Tuy nhiên, cơ chế giám sát này chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Cho nên, các cơ quan của Quốc hội (Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội) nâng cao chất lượng giám sát của mình theo hướng chuyên nghiệp, có trọng tâm, trọng điểm, chuyên sâu.
Để xây dựng Quốc hội chuyên nghiệp hoạt động thường xuyên, liên tục, tất nhiên lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nước phải giảm mạnh sự hiện diện của mình với tư cách là các đại biểu Quốc hội, bởi vì nếu không có sự phân công lao động quyền lực một cách rõ ràng sẽ dẫn đến sự “phân thân” trong vai trò của đại biểu Quốc hội: một người vừa đại diện cho cơ quan giám sát tối cao, vừa là người làm việc trong doanh nghiệp nhà nước. Điều này làm cho chức năng giám sát của các cơ quan Quốc hội đối với quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước khó có thể thực hiện được một cách hiệu quả. Cho nên, cần tăng cường số lượng các đại biểu chuyên trách trong các cơ quan giám sát này.
Để nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội nói chung, chức năng giám sát của Quốc hội nói riêng, cần thiết phải thành lập một cơ quan giám sát chuyên trách trực thuộc Quốc hội. Nhiệm vụ chính của cơ quan này sẽ là giúp Quốc hội tiến hành các cuộc điều tra làm rõ trách nhiệm chính trị và trách nhiệm pháp lý đối với những quan chức cấp cao ở Trung ương và trong bộ máy quản lý các doanh nghiệp nhà nước khi họ có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc các chuẩn mực đạo đức công vụ và những vụ việc gây bức xúc trong dư luận; khởi tố và truy tố những đối tượng này trước Tòa án tối cao. Để đảm bảo cơ quan này hoạt động hiệu quả cần trang bị cho nó những thẩm quyền đặc biệt như: có quyền tuyệt đối trong việc tiếp cận mọi thông tin của nhà nước, buộc các cơ quan có liên quan phải hợp tác để giải quyết vấn đề, tiến hành các biện pháp để ngăn chặn hành vi vi phạm hoặc phục vụ cho công tác thanh tra, điều tra; được áp dụng các biện pháp đặc biệt để thực hiện nhiệm vụ; có quyền điều tra, khởi tố các vụ án hành chính và tham nhũng. Trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo, cơ quan này phải có trách nhiệm hướng dẫn và giúp đỡ những người khiếu nại, tố cáo và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
Hiện nay nhiều nước phát triển trên thế giới xây dựng thiết chế thanh tra Quốc hội – Ombudsman, đặc biệt là ở các nước phát triển Bắc Âu. Cơ chế giám sát thông qua thiết chế này “được đánh giá là ít tốn kém, nhưng hiệu quả cao hơn và tiết kiệm thời gian hơn so với các cơ quan quản lý khác” [45, tr. 60]. Trước những tồn tại, yếu kém trong quá trình giám sát của Quốc hội, yêu cầu nghiên cứu mô hình thanh tra Quốc hội ở một số nước trên thế giới để áp dụng mô hình này vào Việt Nam là thực sự cần thiết, bởi vì:
(i). Thanh tra Quốc hội là cơ quan độc lập, được Quốc hội bầu ra và chỉ chịu trách nhiệm trước Quốc hội, do đó sản phẩm do thanh tra Quốc hội là ra là các báo cáo điều tra về đối tượng chịu sự giám sát sẽ đảm bảo được tính khách quan và minh bạch.
(ii). Thanh tra Quốc hội được Quốc hội bầu ra từ những người có tiêu chuẩn cao về đạo đức, có kinh nghiệm hoạt động trong các cơ quan bảo vệ pháp luật, có uy tín và tâm huyết với nghề nghiệp sẽ nâng cao chất lượng hoạt động giám sát.
(iii). Thanh tra Quốc hội có bộ máy riêng, có nguồn lực con người là những cố vấn pháp luật, nhân viên pháp lý các chuyên ngành, các chuyên gia pháp luật cao cấp hoạt động chuyên nghiệp và cơ sở vật chất được bảo đảm từ ngân sách nhà nước độc lập là cơ sở để thanh tra Quốc hội hoạt động hiệu quả ở nước ta.
. Nâng cao chế độ trách nhiệm trong quản lý đối với vốn tại doanh nghiệp nhà nước
Để nâng cao trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước cũng như trách nhiệm của các cán bộ quản lý doanh nghiệp và người lao động, chế độ trách nhiệm cần phải được chú trọng và nâng cao, cụ thể là:
Thứ nhất, đối với cán bộ quản lý, mặc dù trong Luật DN và điều lệ của các công ty, Tổng công ty đều có những quy định về trách nhiệm của người quản lý ở những vị trí khác nhau đối với công việc quản lý, sử dụng vốn có hiệu quả, song trên thực tế các chế tài chưa cụ thể và việc áp dụng trách nhiệm cá nhân trong quản lý sử dụng vốn tại các DNNN chưa kiến quyết và nghiêm túc. Để khắc phục tình trạng này, trách nhiệm của cá nhân cán bộ quản lý cần được xác định rõ ràng, cam kết cụ thể và khen thưởng, xử phạt phải công bằng, đủ sức thuyết phục.
Thứ hai, đối với cán bộ nhân viên cũng cần xây dựng và thực hiện một cách nghiêm túc quy chế thưởng phạt, đảm bảo nguyên tắc: “thưởng đủ sức tạo động lực cho tăng năng suất lao động, phạt phải đủ sức răn đe”.
Cho nên, để người lao động nói chung, yên tâm phấn khởi làm việc, phát huy năng lực, sở trường, đóng góp nhiều sáng kiến hay, nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm các nguồn vốn của DNNN, nâng cao hiệu suất hoạt động của TSCĐ, các DNNN phải hoàn thiện chính sách khen thưởng và kỷ luật một cách khoa học, trong đó chú trọng đến lợi ích, trách nhiệm của người lao động; đảm bảo công khai, minh bạch, công bằng trong thực hiện chính sách.
III. Kiến nghị
Đối với Quốc hội
- Quốc hội tiếp tục hoàn thiện quy định giám sát tối cao thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước đối DNNN; đánh giá tình hình quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại các doanh nghiệp; đánh giá kết quả Chính phủ tổ chức thực hiện quyền, nghĩa vụ chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước và phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp… để bảo đảm cơ sở pháp lý cho Quốc hội tăng cường kiểm tra, giám sát thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước.
- Quốc hội xây dựng cơ chế đánh giá về việc thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân đại diện chủ sở hữu nhà nước. Quốc hội xem xét thực tiễn và đánh giá kết quả Chính phủ tổ chức thực hiện quyền, nghĩa vụ chủ sở hữu về vốn đối với doanh nghiệp nhằm đánh giá một cách khách quan và chính xác kết quả hoạt động của các DNNN, đặc biệt là việc sử dụng vốn nhà nước vào đầu tư, kinh doanh.
- Quốc hội nghiên cứu sớm ban hành bộ tiêu chí giám sát, quản lý vốn, tài sản nhà nước tại các DNNN trong hoạt động sản xuất, kinh doanh theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa bảo đảm tính công khai, minh bạch, tập trung vào các yếu tố về sản phẩm chủ lực, hiệu quả sử dụng vốn, lao động, tiền lương, tỷ lệ đóng góp vào ngân sách nhà nước,… Hằng năm, kết quả sản xuất, kinh doanh của các DNNN phải được Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán và công bố kết quả. Đây là kênh thông tin chính thống, giúp Quốc hội có căn cứ để giám sát hiệu quả. Do đó, cần tiếp tục hoàn thiện thiết chế Kiểm toán Nhà nước nhằm phát huy vai trò cơ quan này trong hoạt động giám sát tài chính quốc gia, trong đó có giám sát các doanh nghiệp nhà nước, nhất là về tổ chức, hoạt động, nguồn nhân lực và cơ sở pháp lý của Kiểm toán Nhà nước... để thực hiện chức năng giám sát các doanh nghiệp nhà nước.
- Quốc hội cần xây dựng đội ngũ giám sát chuyên trách, bao gồm đại diện chủ sở hữu doanh nghiệp, đại diện cơ quan quản lý tài chính doanh nghiệp và đại diện doanh nghiệp. Giám sát của chủ sở hữu phải có trách nhiệm nắm bắt kịp thời các thông tin về vốn của doanh nghiệp, đánh giá thông tin về vốn và đưa ra đánh giá, kiến nghị chủ sở hữu và doanh nghiệp thực thi những biện pháp nhất định để đảm bảo an toàn và phát triển vốn. Cơ quan quản lý tài chính doanh nghiệp có trách nhiệm giám sát việc đại diện chủ sở hữu thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý vốn, giám sát việc công khai minh bạch các thông tin về vốn để cơ quan quản lý tài chính có thể đưa ra những đánh giá, khuyến nghị thích hợp cho chủ sở hữu và đại diện chủ sở hữu trong vấn đề liên quan đến quản lý vốn. Doanh nghiệp cần có giám sát nội bộ và bộ phận tài chính với chức năng giám sát thường xuyên để bảo đảm thông tin tài chính và vốn doanh nghiệp luôn được cập nhật một cách chính xác nhất.
- Quốc hội cần sớm hình thành thiết chế thanh tra Quốc hội – Ombudsman nhằm nâng cao chất lượng giám sát của Quốc hội đối với DNNN.
Đối với Chính phủ
- Chính phủ cần sớm ban hành các cơ chế, chính sách làm cơ sở pháp lý cho việc quản lý DNNN như: Quy chế quản trị công ty TNHH một thành viên sở hữu nhà nước, quy chế về nhà quản trị tại DNNN 100% vốn sở hữu, DNNN sở hữu trên 50% vốn điều lệ.
- Chính phủ ban hành quy định rõ nhiệm vụ của DNNN: Nhiệm vụ kinh tế - xã hội và nhiệm vụ kinh doanh. Từ đó, xây dựng hai bộ tiêu chí để đánh giá kết quả hoạt động của DNNN. Hiện nay, do chưa phân biệt rõ hai chức năng này nên trong hạch toán dễ dẫn đến các tiêu cực, làm méo mó thị trường.
- Chính phủ ban hành những quy định cho phép các địa phương tiếp nhận vốn thu hồi được từ việc tiến hành CPH các DNNN thuộc địa phương quản lý và thành lập để địa phương tăng cường nguồn thu ngân sách phục vụ sự nghiệp đầu tư phát triển địa phương mình. Hiện nay, Chính phủ quy định các DNNN ở địa phương khi CPH đều phải chuyển phần vốn thu hồi do bán cổ phần cho SCIC quản lý, mặc dù vốn này trước đây do ngân sách địa phương đầu tư. Đây là một vướng mắc trong cơ chế quản lý vốn sau CPH DNNN ở địa phương mà các địa phương đều lấn cấn khi tiến hành CPH. Do đó, thời gian qua, nhiều địa phương không mặn mà lắm với việc CPH các DNNN do địa phương mình quản lý và đầu tư.
KẾT LUẬN
1. Vốn trong các DNNN là một trong những nguồn lực quan trọng để bảo đảm vị trí, vai trò của DNNN trong nền kinh tế quốc dân. Sử dụng hiệu quả vốn trong các DNNN là yêu cầu khách quan trong quá trình đẩy mạnh tái cấu trúc DNNN, nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của DNNN trong bối cảnh hiện nay ở nước ta. Vì thế, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhằm đảm bảo cơ cấu vốn hợp lý trong DNNN là việc làm cần thiết trước mắt và lâu dài ở nước ta hiện nay. Theo đó, xây dựng DNNN có cơ cấu vốn hợp lý hơn, tập trung vào ngành, lĩnh vực then chốt, cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội và quốc phòng, an ninh, làm nòng cốt để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng, điều tiết nền kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Qua đó, DNNN từng bước nâng cao sức cạnh tranh, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu đối với doanh nghiệp kinh doanh; hoàn thành nhiệm vụ sản xuất, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, an ninh đối với doanh nghiệp hoạt động công ích.
2. Nhìn chung, trong những năm qua, vốn trong Tổng Công ty được bảo toàn và không ngừng tăng trưởng trong các năm qua; hiệu quả sử dụng vốn trong Tổng Công ty từng bước được cải thiện, mặc dù chưa cao nhưng vẫn đảm bảo các DN này tiếp tục được duy trì và đảm nhận những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội do Nhà nước giao phó. Hoạt động của Tổng Công ty nhìn chung đạt dược một số kết quả nhất định, đóng góp cho NSNN, góp phần đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước, đảm bảo ổn định kinh tế - xã hội, nâng cao an sinh xã hội. Tuy vậy, hiệu quả sử dụng vốn trong Tổng Công ty vẫn còn thấp, đặc biệt thấp hơn so với các DN tư nhân; hiệu suất sử dụng vốn tại Tổng Công ty trong những năm qua có xu hướng giảm.
3. Trước thực tiễn sử dụng vốn Tổng Công ty, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách và pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại DN này, trong đó tập trung vào những điểm cốt yếu sau: (1). Hoàn thiện cơ chế sử dụng vốn tại DNNN, trong đó chú trọng việc nâng cao hiệu quả sự dụng VCĐ, VLĐ và xây dựng kế hoạch sử dụng vốn tối ưu; (2). Phân định rõ vai trò chủ sở hữu vốn trong DNNN và chủ thể quản lý nhà nước với DNNN; (3). Hoàn thiện pháp luật về thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh của DNNN; đồng thời hoàn thiện quy định pháp luật về giám sát hiệu quả sử dụng vốn tại DNNN; (4). Nâng cao chế độ trách nhiệm trong quản lý đối với vốn tại doanh nghiệp nhà nước; (5). Nâng cao hiệu quả quản trị DNNN (cooperate governance) ở Việt Nam hiện nay.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các DNNN nói chung và Tổng Công ty Đầ tư và Xuất nhập khẩu Cao Bằng nói riêng là một yêu cầu cấp thiết nhằm phát huy vai trò của DNNN nói riêng và thành phần kinh tế nhà nước nói chung trong nền kinh tế, qua đó đảm bảo công bằng, tiến bộ trong từng bước phát triển ở Việt Nam hiện nay./.
I. Sách, luận án, kỷ yếu
1. Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa – Tư pháp, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 đổi mới (1986 - 2016), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Hội nghị lần thứ bốn Ban chấp hành Trung ương khóa XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam với công tác cải cách bộ máy hành chính và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2005.
8. Lê Hồng Hạnh (2004), Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Đoàn Văn Hạnh (2008), Công ty cổ phần và chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
10. Phạm Thị Thanh Hòa (2012), Cơ chế quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Hà Nội.
11. Hội đồng khoa học các cơ quan Đảng Trung ương và Hiệp hội doanh nghiệp thành phố Hà Nội (2013), Doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Ngô Thắng Lợi (Chủ biên) (2004), Doanh nghiệp nhà nước trong phát triển kinh tế – xã hội ở Việt Nam đến năm 2010, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. PGS, TS. Lê Quốc Lý (Chủ biên) (2014), Thành công và bài học đắt giá của doanh nghiệp nhà nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Ngô Quang Minh (Chủ biên) (2001), Kinh tế nhà nước và quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đinh Tuấn Minh & Phạm Thế Anh (2016), Từ nhà nước điều hành sang nhà nước kiến tạo phát triển, Nbx. Tri Thức.
16. Nguyễn Thị Mỵ (2012), Quản lý vốn nhà nước trong các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn thành phố Hải Phòng, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Hà Nội.
17. Nguyễn Đăng Nam (2009), Chính sách và cơ chế quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp giai đoạn đến năm 2020, Đề tài cấp bộ.
18. Nguyễn Xuân Nam (2005), Đổi mới cơ chế quản lý vốn và tài sản đối với tổng công ty 91 phát triển theo mô hình tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam, Luận án Tiễn sĩ.
19. Ngân hàng thế giới (2013), Điểm lại cập nhât tình hình phát triển Kinh tế Việt Nam, Hà Nội.
20. Ngân hàng thế giới (1999), Giới quan chức trong kinh doanh – ý nghĩa kinh tế và chính trị của sở hữu nhà nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[1] Nghị định 151/2013/NĐ-CP ngày 01/11/2013 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn của nhà nước.